Bài giảng Lịch Sử 11 - Bài dạy số 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)

ppt 16 trang minh70 7040
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Lịch Sử 11 - Bài dạy số 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_lich_su_11_bai_day_so_24_viet_nam_trong_nhung_nam.ppt

Nội dung text: Bài giảng Lịch Sử 11 - Bài dạy số 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)

  1. I) Về tư tưởng, tôn giáo - Nho giáo dần suy thoái, Phật giáo, đạo giáo có điều kiện để khôi phục lại vị trí của mình - Từ thế kỉ XVI-XVIII, nhiều giáo sĩ phương Tây theo thuyền buôn vào Việt Nam truyền đạo → xuất hiện đạo Thiên Chúa, nhà thờ Thiên Chúa giáo mọc lên ở nhiều nơi. - Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đều thi hành chính sách cấm đạo Thiên Chúa giáo. - Các giáo sĩ phương Tây vào nước ta truyền đạo đã học tiếng Việt để giảng đạo và dùng chữ cái La-tinh ghi âm tiếng Việt → đến giữa thế kỉ XVII, với sự xuất hiện của cuốn từ điển Việt - Bồ - La-tinh và cuốn Giáo lí cương yếu bằng tiếng Việt→ chữ Quốc ngữ đã ra đời. - Tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, ông bà, các vị anh hùng, đặc biệt là những người có công với đất nước → nét đẹp trong tín ngưỡng dân gian: phong phú, đa dạng, đậm chất đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. - Ngoài các nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhiều chùa chiền, đền thờ, văn miếu cũng được xây dựng thêm.
  2. II) Phát triển giáo dục và văn học 1) Giáo dục: - Nhà Mạc tiếp tục phát triển giáo dục, tổ chức thi cử đều đặn. - Khi đất nước bị chia cắt: • Đàng Ngoài: nhà nước Lê - Trịnh tiếp tục mở rộng Nho học theo chế độ thời Lê sơ, tổ chức nhiều khoa thi nhưng số người đi thi và số người đỗ đạt không nhiều. • Đàng Trong:, hình thức khoa cử xuất hiện muộn(1646, Chúa Nguyễn mới mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng) và không được chú trọng như Đàng Ngoài. Họ Nguyễn quan tâm hơn đến kiến thức thực tế và tuyển dụng quan lại chủ yếu thông qua hình thức tiến cử. -Vua quang trung lên ngôi cho chấn chỉnh lại nền giáo dục( dịch sách kinh từ chữ Hán sang chữ Nôm cho học sinh học, đưa văn thơ chữ nôm vào thi cử) -Nội dung giáo dục chủ yếu là kinh sử, các bộ môn khoa học tự nhiên không được chú ý.
  3. 2) Văn học: - Văn học chữ Hán mất dần vị thế vốn có ở Lê sơ. - Nét nổi bật của văn học giai đoạn này là sự nở rộ của các tác phẩm văn thơ viết bằng chữ Nôm, trong đó đặc biệt là những truyện Nôm khuyết danh như Trê cóc, Trinh thử, Phạm Công – Cúc Hoa, Thạch Sanh, Tống Trân – Cúc Hoa, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc cùng với các tác giả nổi tiếng như: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ, Nguyễn Dữ, Mạc Thiên Tứ, Nguyễn Cư Trinh, Ngô Thế Lân - Văn học chính thống đang suy thoái, nhưng trong văn học dân gian hình thành trào lưu văn học dân gian khá ấn tượng: ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện dân gian * Kho tàng văn học hiện có vô cùng phong phú và đa dạng, phản ánh cuộc sống tinh thần và tâm linh của con người Việt Nam đương thời.
  4. III) Nghệ thuật và khoa học kỹ thuật 1) Nghệ thuật: - Thế kỷ XVI – XVIII, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc tiếp tục phát triển. • Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên – Huế) • Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) • Các tượng La Hán ở chùa Tây Phương (Hà Tây) - Trào lưu nghệ thuật dân gian được hình thành. Cảnh sinh hoạt thường ngày của nhân dân được khắc lên các vì, kèo ở những ngôi đình làng →tuy nghệ thuật đơn giản nhưng phản ánh được cuộc sống của người dân thường. - Nghệ thuật sân khấu phát triển ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nhiều làng có phường tuồng, phường chèo. Làn điệu dân ca mang đậm tính địa phương như quan họ, hát giặm, hò, vè, lí, si, lượn phổ biến.
  5. Chùa Thiên Mụ
  6. Chùa Ông là nơi thờ Quan Vân Trường, nhân vật anh hùng của thời Tam Quốc - Trung Hoa. Được xây dựng khoảng năm 1840, Chùa Ông cũng được gọi là Nghĩa An hội quán, nơi qui tụ những người Hoa gốc Triều Châu. Kiến trúc tương tự như các chùa Hoa Chợ Lớn, hình chữ “khẩu” với ở giữa là “giếng trời” thiên tĩnh. Trang trí thiên về ghép mảnh sành và sứ, cùng với những khối đá khổ lớn và gỗ quý.
  7. Một chiếc đỉnh bằng Tượng hổ bằng gốm làm tại làng Bát gốm trang trí đắp nổi Tràng thời Cảnh Hưng. rồng và nghê được làm vào năm 1736 (thời Cảnh Hưng) tại làng Bát Tràng.
  8. Tượng Phật Bà Quan Âm ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) Tượng được tạc vào năm 1656. Bố cục hết sức tinh khéo, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên, mềm mại của người phụ nữ. Trên bức tượng, các cánh tay xoè ra uyển chuyển như động tác múa và những bàn tay nhỏ sắp xếp như ánh hào quang toả ra xung quanh. Bức tượng là hình ảnh của bàn tay và khối óc, của lao động và trí tuệ, là biểu tượng của sức sống và sự vươn lên của con người.
  9. Chùa Tây Phương (Thuận Thành – Bắc Ninh)
  10. Tượng La Hán chùa Tây Phương (Hà Tây)
  11. CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG Các vị La Hán chùa Tây Phương Các vị ngồi đây trong lặng yên Tôi đến thăm về lòng vấn vương. Mà nghe giông bão nổ trăm miền Há chẳng phải đây là xứ Phật, Như từ vực thẳm đời nhân loại Mà sao ai nấy mặt đau thương ? Bóng tối đùn ra trận gió đen. Đây vị xương trần chân với tay Mỗi người một vẻ, mặt con người Có chi thiêu đốt tấm thân gầy Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã Tự bấy ngồi y cho đến nay. Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi. Có vị mắt giương, mày nhíu xệch Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau Trán như nổi sóng biển luân hồi Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Môi cong chua chát, tâm hồn héo Một câu hỏi lớn. Không lời đáp Gân vặn bàn tay mạch máu sôi. Cho đến bây giờ mặt vẫn chau. Có vị chân tay co xếp lại Có thực trên đường tu đến Phật Tròn xoe từa thể chiếc thai non Trần gian tìm cởi áo trầm luân Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối Bấy nhiêu quằn quại run lần chót Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn Các vị đau theo lòng chúng nhân ?
  12. . Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu ? Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la Sống lại cho tôi hỏi một câu: Sờ soạng, cha ông tìm lối ra Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh Có phải thế mà trên mặt tượng Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau ? Nửa như khói ám, nửa sương tà. Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão Các vị La Hán chùa Tây Phương! Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời Hôm nay xã hội đã lên đường Là cha ông đó bằng xương máu Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại Đã khổ, không yên cả đứng ngồi. Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương. Cha ông năm tháng đè lưng nặng Cha ông yêu mến thời xưa cũ Những bạn đương thời của Nguyễn Du Trần trụi đau thương bỗng hoá gần! Nung nấu tâm can vò võ trán Những bước mất đi trong thớ gỗ Đau đời có cứu được đời đâu. Về đây, tươi vạn dặm đường xuân. Đứt ruột cha ông trong cái thuở Huy Cận Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn Héo tựa mầm non thiếu ánh dương
  13. 2) Khoa học – Kỹ thuật: a) Về khoa học: số công trình nghiên cứu khoa học tăng lên • Sử học: bên cạnh các bộ lịch sử của nhà nước, có nhiều bộ lịch sử của tư nhân như Ô Châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tiền biên, Thiên Nam ngữ lục. • Địa lý: tập bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư. • Quân sự: tập Hổ Trướng khu cư và Công trình lũy Thầy của Đào Duy Từ • Triết học: một số bài thơ, tập sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn • Y học: bộ sách y học của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
  14. “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi chép lịch sử từ thời Hồng Bàng đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (1428), được Ngô Sĩ Liên biên soạn dựa trên “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu và “Sử ký tục biên” của Phan Phu Tiên.
  15. b) Về Kỹ thuật: -Sáng tạo một số thành tựu kỹ thuật như đúc súng đại bác theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành lũy, - Các thế kỷ XVII – XVIII, một số thành tựu phương Tây du nhập vào nước ta thông qua ngoại thương và truyền đạo. Tuy nhiên,không có điều kiện phát triển do nhiều hạn chế.