Sáng kiến kinh nghiệm Nâng chất lượng trong giờ luyện nói - môn Ngữ Văn 7

pdf 16 trang Minh Phúc 17/04/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng chất lượng trong giờ luyện nói - môn Ngữ Văn 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_nang_chat_luong_trong_gio_luyen_noi_mo.pdf

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng chất lượng trong giờ luyện nói - môn Ngữ Văn 7

  1. BÁO CÁO BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY I.THÔNG TIN CHUNG 1.Tên biện pháp: Nâng chất lượng trong giờ luyện nói - Môn Ngữ văn 7 2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp: Giáo dục ( Dạy học Môn Ngữ văn lớp 7 THCS) 3. Tác giả: Họ và tên : Phạm Thị Trinh Giới tính: Nữ Ngày, tháng, năm sinh: 16- 03- 1983 Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn Chức vụ: Giáo viên dạy Ngữ văn lớp 7 Đơn vị công tác: Trường TH & THCS Thụy Bình Điện thoại: 0975 395 941 Email:trinhthuybinh3@thaithuy.edu.vn 4. Đơn vị áp dụng biện pháp: Tên đơn vị: Trường TH & THCS Thụy Bình Địa chỉ: Xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Điện thoại: 0227 3856 385 5. Thời gian áp dụng thử sáng kiến lần đầu: Năm học 2018- 2019 1
  2. II. BÁO CÁO MÔ TẢ BIỆN PHÁP 1.Tên biện pháp: Nâng cao chất lượng trong giờ luyện nói - Môn Ngữ văn 7 2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp: Giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7 3. Mô tả bản chất của biện pháp 3.1 Tình trạng biện pháp Trong quá trình giao tiếp không phải lúc nào người nói cũng có thể nói đúng những gì mình nghĩ, hoặc nói để người nghe hiểu đúng ý mình. Một văn bản muốn hoàn thiện được cả về hình thức nội dung và mục đích phải phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Vì vậy người nói, người đọc phải có sự chuẩn bị, lường trước những yếu tố này bởi nó quyết định đến việc thành hay bại của việc thưởng thức, tiếp cận văn bản đó. Qua nhiều năm giảng dạy chương trình Ngữ văn lớp 7 của trường TH & THCS Thuỵ Bình, khi chưa áp dụng biện pháp Nâng cao chất lượng trong giờ luyện nói - Môn Ngữ Văn 7, tôi nhận thấy trong thực tiễn dạy học môn Văn- Tiếng Việt trước đây và môn Ngữ văn hiện nay không phải khi nào cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết đều được chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông thường người dạy chú trọng vào việc dạy các tri thức Văn- Tiếng Việt và tạo lập văn bản mà bỏ qua việc phát triển cho học sinh kỹ năng nghe, nói. Có một thực tế là nhiều thế hệ học sinh ra trường( đã học xong THCS và THPT) mà không biết cách bộc lộ những điều mình nghĩ, không truyền đạt chính xác một thông tin hoặc khi nói không tuân thủ các phương châm hội thoại.... Trong quá trình thực hiện chương trình môn Ngữ văn 7 tôi nhận thấy rằng mặc dù đã có những giờ luyện nói song còn quá ít. Trong khi đó đối tượng học sinh lại quen với cách kể chuyện, miêu tả ở các lớp dưới nên rất bỡ ngỡ với môn Ngữ văn lớp 7 vừa mới mẻ lại vừa khó tiếp cận với các em bởi các văn bản trung đại, các bài tập làm văn biểu cảm và nghị luận..v.v... Nhiều em khả năng viết tương đối tốt nhưng đến khi yêu cầu đọc bài hoặc trình bày văn bản trước tập thể lớp lại e ngại, rụt rè nên hiệu quả bài làm chưa cao. Điều đó chứng tỏ khả năng giao tiếp và kĩ năng trình bày vấn đề ở nơi đông người của các em vẫn còn hạn chế. Từ thực trạng điều tra thì tâm lý chung của các giáo viên Ngữ văn là lướt qua rất nhanh phần đọc và nói trước lớp của các em học sinh vì sợ quá giờ hoặc ảnh hưởng đến nội dung bài học. Số học sinh trong lớp quá nhiều mà phần lớn các em chưa có kỹ năng nói, đọc văn bản thật cẩn thận trước tập thể lớp. Do đó việc tiếp cận văn bản của các em còn hời hợt, chưa sâu nên khi tìm hiểu văn bản ở phần đọc- hiểu văn bản hoặc khi viết bài tập làm văn để phát biểu cảm nghĩ hoặc nghị luận về văn bản đó các em làm rất kém. 2
  3. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bình môn văn học học kì I khối 7 năm học 2016 – 2017 khi tôi chưa áp dụng biện pháp: Lớp Điểm 9 -10 Điểm 7- 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 7A(25) 0 0 7 28,0 15 60,0 3 12 7B(22) 0 0 3 13,64 12 54,55 7 31,81 Tổng(45) 0 0 10 22,22 27 60,0 8 17,78 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số nguyên nhân chủ yếu sau : a. Đối với giáo viên - Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế : - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan như cơ sở vật chất của trường còn nghèo nàn, thiếu các trang thiết bị dạy – học nên việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh. - Nhiều khi giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sâu mỗi trái tim người học. - Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy. - Nhiều khi giáo viên còn nặng về yêu cầu lí thuyết nên chưa tăng cường tính thực tiễn và tính sư phạm trong bài học, chưa linh hoạt trong phân bố thời lượng mỗi tiết học b. Đối với học sinh - Do ngôn ngữ địa phương nên có nhiều em có thói quen nói ngọng từ bé và chính các em cũng không phát hiện được mình đang nói ngọng. - Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học môn Ngữ văn như em Nguyễn Khuông Mạnh, Bùi Xuân Trí, Phạm Minh An ( 7A), Phan Anh Khoa, Phạm Danh Phú, Phạm Thế Quyền...( 7B). - Nhiều em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong sách giáo khoa nên không biết trước văn bản có nhiều từ, dấu câu rất khó đọc. - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game, Internet . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học, sao nhãng việc học. - Hiện nay phần đông các gia đình có xu hướng coi nhẹ môn Khoa học -xã hội kể cả môn văn nên không quan tâm đến việc học tập của con, không để ý đến việc chuẩn bị bài ở nhà cũng như làm bài trên lớp của con. - Vì trường TH & THCS Thụy Bình nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, có nhiều vấn đề xã hội phức tạp nên các em phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, có bố hoặc mẹ có vấn đề về tệ nạn xã hội như nghiện ma 3
  4. túy, nhiễm HIV nên các em không có thời gian học hoặc bị ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập 3.2. Nội dung biện pháp - Mục đích của biện pháp Đối tượng giao tiếp là người nghe. Hiệu quả giao tiếp không phụ thuộc vào người nói mà phụ thuộc vào người nghe. Trong thực tiễn giao tiếp số lượng người nghe có khi là một nhưng cũng có khi là rất nhiều người. Vì thế nói, đọc sao cho người nghe hiểu thông, hiểu tỏ là một trong những điều rất quan trọng. Một cuộc giao tiếp có hiệu quả là khi nó đạt được mục đích nhất định với các loại tác động về hành động, nhận thức và tình cảm của người nghe ở mức cao. Ngoài đối tượng giao tiếp là người nghe còn có đối tượng giao tiếp chính là mảng thực tế được nói đến trong văn bản. Nó có thể là một bài thơ, một bài văn, một vấn đề của tư tưởng tình cảm Những nội dung đó thuộc các phương thức rất khác nhau như biểu cảm, nghị luận... Nhưng nhiều khi người nói không thể hiện đúng hoặc thể hiện hết những điều cần nói. Và điều này tạo nên một khoảng cách giữa ngôn bản dự kiến và ngôn bản phát ngôn. Chính điều này làm cho văn bản nói đôi khi khó hơn rất nhiều so với văn bản viết. Khi đặt ra Báo cáo biện pháp góp phần Nâng cao chất lượng trong giờ luyện nói - Môn: Ngữ văn 7, tôi muốn các đồng nghiệp chia sẽ cùng tôi những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, giải quyết triệt để tình trạng học sinh nói và đọc văn bản còn yếu.Khi nói các em thường mắc các lỗi: Phát âm sai, nói nhỏ, nói sai ngữ pháp và tư thế không tự nhiên. Khi đọc các em cũng thường mắc các lỗi: Phát sai âm, ngắt hơi không đúng, giọng điệu không phù hợp một số từ không chuẩn. Đó là những điều khiến tôi trăn trở, suy nghĩ và muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong Báo cáo biện pháp : Nâng cao chất lượng trong giờ luyện nói - Môn Ngữ văn 7 - Nội dung của biện pháp + Điểm mới trong biện pháp So với các biện pháp thực hiện trước đó của chính bản thân tôi và các đồng nghiệp, tôi nhận thấy biện pháp của mình đã có những điểm mới sau đây: - Đã chỉ ra được thực chất việc dạy nói và đọc văn bản ở khối lớp 7 là rất khó nên các em học sinh rất dễ bị mắc lỗi khi nói và đọc vì có nhiều văn bản phiên âm chữ Hán nhất trong toàn bộ chương trình Ngữ văn THCS. - Đã nêu bật được tầm quan trọng của việc nói có tác dụng quan trọng trong quá trình hình thành tư duy ngôn ngữ nói cũng như ngôn ngữ viết sau này của học sinh. - Gắn việc học với thực hành thông qua khuyến khích thói quen đọc sách của các em, một thói quen tốt, giúp ích rất nhiều cho các em trong quá trình học môn văn về sau này. 4
  5. - Tích hợp được kiến thức liên môn theo các chủ đề biên soạn mới nhất trong Kế hoạch thực hiện chương trình môn Ngữ văn 7 của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thái Thụy về soạn, giảng bài. - Đánh giá được toàn diện và khách quan hơn tình trạng nói của học sinh ở khối lớp 7 để khi lên lớp trên giáo viên sẽ có hướng đi thích hợp và hiệu quả nhất. + Các cách thức thực hiện: Theo kế hoạch thực hiện chương trình dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn, môn Ngữ văn 7 thì các chủ đề và các tiết có giờ luyện nói là: HỌC KÌ I: - Chủ đề 8: Văn biểu cảm ; tiết 33, tuần 9: Luyện nói: Văn biểu cảm về sự vật con người. - Chủ đề 14: Văn biểu cảm; tiết 53, tuần 14: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học. HỌC KÌ II: - Chủ đề 31: Văn nghị luận giải thích; tiết 130, tuần 30: Luyện nói: bài văn giải thích một vấn đề. Từ thực tế giảng dạy chương trình Ngữ văn lớp 7 của trường THCS Thuỵ Bình, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng các giờ luyện nói ở học sinh lớp 7 và bậc THCS qua các bước như sau : a. Hoạt động nói. Nói là một bản năng ngôn ngữ của con người. Cùng với sự phát triển của thể chất và trí tuệ thì trong mỗi giai đoạn khác nhau hành động nói cần có yêu cầu và chuẩn mực khác nhau. Từ nói theo sự bắt chước đến nói có suy nghĩ và nói có hiệu quả là một quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ của con người. Trong mọi hoạt động giao tiếp cần chú ý nói có hiệu quả. Vậy nói có hiệu quả là nói như thế nào? Trước hết nói có hiệu quả là nói đúng với mục đích giao tiếp có sức thuyết phục người nghe (ở mọi đối tượng), nói phải ngắn gọn, dễ hiểu, tuân thủ các phương châm hội thoại như quy tắc thương lượng hội thoại- thoả thuận giữa những người cùng tham dự giao tiếp về đề tài, nội dung, vị thế giao tiếp, quy tắc luân phiên lượt lời, quy tắc liên kết hội thoại... ngoài ra cần phải nói cho 5
  6. phù hợp với thói quen ngôn ngữ, suy nghĩ, tình cảm, tâm lý và nhu cầu của người nghe. Vì thế trước khi nói cần chuẩn bị tốt cho cuộc giao tiếp. b. Nội dung của một giờ luyện nói. Muốn một giờ luyện nói thực sự có hiệu quả cần phải có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt từ nội dung, hình thức, cách thức đến phương tiện để phục vụ giờ luyện nói. Trước giờ luyện nói từ 3 đến 5 ngày giáo viên cần giao nội dung hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị chi tiết bài nói ( Phần này trong Sách giáo khoa thường có tiêu đề là I. Chuẩn bị ở nhà) để các em hình dung được mình sẽ nói gì ( xác định đề tài) nói với ai, nói trong hoàn cảnh nào, nói để làm gì, nói như thế nào... để học sinh hoàn toàn chủ động với giờ luyện nói. Như vậy các em mới hiểu rõ, có đầy đủ thông tin về điều cần nói, tạo điều kiện để các em thu thập, chọn lọc xem nên nói những gì đã biết để phù hợp và khuyến khích ở người đọc, người nghe để rồi lựa chọn cách nói thích hợp. * Chuẩn bị hoàn cảnh, phương tiện giao tiếp. Trước hết giáo viên cần phải kích thích nhu cầu muốn nói, muốn bộc lộ của học sinh bởi đa số học sinh rất ngại nói hoặc thiếu tự tin khi đứng trước nhiều người, bởi vì như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: " Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm ".và " Dạy làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh định diễn tả cái gì mình suy nghĩ , mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nổi bật điều mình muốn nói" .( Dạy văn là một quá trình rất toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/ 1973 ). Vì vậy trước một hoặc hai ngày giáo viên cần giao cho các nhóm học sinh tập nói trước nhóm tại nhà( dưới hình thức học tập theo nhóm) hoặc học tập cá nhân. Qua kinh nghiệm của cá nhân và các đồng nghiệp khác tôi thấy việc chuẩn bị tốt sẽ giúp giờ học có hiệu quả hơn rất nhiều. Sau khi lựa chọn hình thức cần phải tạo ra các tình huống giả định để học sinh nói được và có nhu cầu muốn nói về vấn đề mà các em đã quen thuộc. 6
  7. Ngoài ra cần phải chuẩn bị hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói: không khí lớp học, thái độ của người tham gia giao tiếp, sự khuyến khích kịp thời của giáo viên. * Các bước tiến hành một giờ luyện nói trên lớp Bước 1: - Giờ ra chơi trước khi vào tiết luyện nói học sinh phải chuẩn bị lớp học: kê bàn ghế phù hợp với hình thức của giờ học. - Chuẩn bị các phương tiện: bảng phụ lớn, có thể dùng điện thoại hoặc đài để ghi âm.... Bước 2: - Vào giờ luyện nói giáo viên đi kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh, chữa nhanh bài chuẩn bị – dàn bài, sau đó đặt bảng phụ đã ghi dàn bài chuẩn vào vị trí thích hợp ( thời gian làm những việc này chỉ gói gọn trong thời gian 5 phút) Bước 3: - Giáo viên dựa vào từng hình thức học tập để phân công nhiêm vụ.( Học sinh giỏi sẽ được cử làm người giới thiệu các bạn tham gia hành động nói còn giáo viên phải ngồi bên dưới để tiện theo dõi, nhận xét, đánh giá chính xác phần thể hiện của học sinh) - Sau khi đã phân công công việc giáo viên nêu những yêu cầu cần tuân thủ trong giờ luyện nói: + Phải nói theo dàn bài đã chuẩn bị trước ( dàn bài ngắn gọn, nêu được các ý chính, bám sát yêu cầu của đề bài từ đó học sinh dựa vào dàn bài để nói) + Tránh nói không có cơ sở, tránh đọc lại hoặc học thuộc lòng để đọc lại một bài mẫu đã viết sẵn + Giọng nói rõ ràng, âm vực vừa phải, đúng chuẩn mực ngữ âm, truyền cảm, thuyết phục người nghe ( biết lên bổng xuống trầm để thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên không gò bó) + Phải tự tin, tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy 7
  8. + Không nói lan man, lạc đề Bước 4: - Sau khi nêu xong yêu cầu giáo viên hướng dẫn cho học sinh luyện nói.( Mỗi em một đoạn bất kỳ. Khi gọi một em lên nói thì báo luôn cho em kế tiếp để có thời gian chuẩn bị). Kết thúc bài nói của mỗi học sinh giáo viên cùng với một số học sinh khác sẽ nhận xét, rút kinh nghiệm - Giáo viên: Luôn luôn phải chủ động với thái độ của mình khi nhận xét, đánh giá. Phải tìm bằng được những ưu điểm của các em để động viên kịp thời. tr- ước lỗi của các em thì nhắc nhở một cách nhẹ nhàng bởi trong giờ luyện nói tâm lý của người tham gia là rất quan trọng. Nếu giáo viên nóng nảy với học sinh trong giờ luyện nói chắc chắn giờ học sẽ không có hiệu quả tạo nên không khí nặng nề, căng thẳng. Bước 5: - Cuối giờ luyện nói giáo viên tổng kết, nhận xét đánh giá về tất cả các mặt ( từ việc chuẩn bị nội dung, thái độ, phương tiện đến những ưu điểm, những tồn tại của giờ luyện nói, từ đó rút kinh nghiệm trong giờ luyện nói nói riêng và trong giao tiếp nói chung...) c. Ứng dụng. Sau đây là một phần giáo án trích ngang của tôi khi tôi thiết kế để dạy bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học( Chủ đề 14: Văn biểu cảm Tiết 53, Tuần 14) trong môn Ngữ văn lớp 7 từ khâu chuẩn bị đến tiến trình thực hiện giờ hoạt động nói trên lớp. Chủ đề 14: Văn biểu cảm Tuần 14- Tiết 53 LUYỆN NÓI: PHÁT BIỂU CẢM NGHĨ VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC A/ Mục tiêu cần đạt: 1.Kiến thức: Giúp học sinh: - Hiểu rõ thêm thế nào là phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học. 8
  9. - Nhận thức rõ đó là kiểu bài trung gian giữa tự sự, miêu tả với nghị luận. 2. Kĩ năng: - Có kỹ năng trình bày miệng một cách mạch lạc, hấp dẫn những cảm nhận đánh giá của mình về tác phẩm văn học. - Luyện kĩ năng tìm ý, lập dàn ý và diễn đạt bằng văn nói. 3. Thái độ: - Tích cực học hỏi ở bạn bè và trau dồi khả năng ngôn ngữ cho bản thân mình 4. Định hướng phát triển năng lực: - Nâng cao khả năng giao tiếp trước tập thể. - Củng cố thêm kiến thức về văn biểu cảm B/ Chuẩn bị: 1. Học sinh: - Trước hai ngày học sinh phải học tập theo nhóm để lập dàn ý. Tập nói trước nhóm về đề bài: “Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ” - Trước giờ học: học sinh chuẩn bị điều kiện cho giờ học: Kê bàn ghế theo hình chữ U. Lớp trưởng chuẩn bị lời giới thiệu các bạn lên nói trước lớp - Trang phục: chỉnh tề hơn mọi ngày để tạo sự tự tin. 2. Giáo viên: - Thiết kế bài học theo các mục tiêu đã đề ra - Chuẩn bị máy tính – hoặc điện thoại thông minh để ghi âm một đoạn nói của học sinh. - Giáo án trình chiếu điện tử. - Bảng phụ ghi dàn bài của đề * Mở bài: - Giới thiệu bài thơ và cảm nghĩ chung của em * Thân bài: - Chuẩn bị một đoạn văn nêu cảm nghĩ chung về hình ảnh trong bài thơ phong cảnh, tâm hồn ) 9
  10. - Chuẩn bị đoạn văn nêu cảm nghĩ cho từng câu thơ; chú ý các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so sánh * Kết bài: Đọc bài thơ, ta thấy Bác Hồ là một nghệ sĩ yêu cái đẹp và sáng tạo cái đẹp cho đời. C/ Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy học. - Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh (1 phút) Giáo viên yêu cầu học sinh để bài chuẩn bị lên bàn sau đó đi một lượt để kiểm tra. *Bài mới: Giới thiệu bài:Khi đọc một tác phẩm văn học em thường có thái độ gì? Tại sao? ( Gv để học sinh tự do bày tỏ thái độ...) Đọc một tác phẩm văn chương ta có thể thích hay không thích, yêu mến hoặc căm ghét một nhân vật nào đó. Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn chương là nói lên cảm xúc của người đọc bắt nguồn từ một nhân vật, một chi tiết ...lời văn, lời thơ hay ý nghĩa trong tác phẩm.. Bài học hôm nay sẽ củng cố cho các em khả năng diễn đạt trước tập thể... HOẠT ĐỘNG DẠY HOẠT ĐỘNG HỌC Hoạt động 1: Hướng dẫn chuẩn bị. ? Em hãy trình bày dàn bài sơ lược của Một học sinh khá trình bày đề đã chuẩn bị ở nhà a. Mở bài: GV: Nhận xét, chỉnh sửa cho hợp lý - Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm - Ấn tượng, cảm xúc chung b. Thân bài : - Cảm nhận chung về hình ảnh trong bài ( phong cảnh, núi rừng Việt Bắc nên thơ, đẹp như thế nào, tâm hồn Bác ra sao ). - Cảnh 2 câu đầu gợi em liên tưởng điều gì, những từ ngữ hình ảnh nào cần chú ý. - Cảm xúc của em về 2 câu sau. 10