Chuyên đề Một số biện pháp nhằm sử dụng tốt hình ảnh trực quan môn Mĩ thuật Lớp 7 Trường THCS
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Một số biện pháp nhằm sử dụng tốt hình ảnh trực quan môn Mĩ thuật Lớp 7 Trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
        Tài liệu đính kèm:
 chuyen_de_mot_so_bien_phap_nham_su_dung_tot_hinh_anh_truc_qu.docx chuyen_de_mot_so_bien_phap_nham_su_dung_tot_hinh_anh_truc_qu.docx
Nội dung text: Chuyên đề Một số biện pháp nhằm sử dụng tốt hình ảnh trực quan môn Mĩ thuật Lớp 7 Trường THCS
- BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THÁNG 12 TÊN CHUYÊN ĐỀ: “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM SỬ DỤNG TỐT HÌNH ẢNH TRỰC QUAN MÔN MĨ THUẬT LỚP 7 TRƯỜNG THCS” Người báo cáo: Lê Thị Bích Hạnh Ngày báo cáo: 14/12/2021 NỘI DUNG: I.ĐẶT VẤN ĐỀ: Xuất phát từ mục tiêu chung “ Nâng cao tính chủ động, phát huy tính tích cực, tư duy của học sinh”, môn Mĩ thuật ở trường THCS góp phần thực hiện mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và kĩ năng cơ bản để hình thành nhân cách con người hiểu được cuộc sống và luôn biết vươn lên cái hoàn thiện” Chân- Thiện- Mĩ” Vì vậy, để đạt được những yêu cầu trên trong dạy học cần sử dụng triệt để các loai đồ dùng đã có hoặc tự làm - sưu tầm. Ngày nay, công nghệ thông tin đã và đang đóng vai trò quan trọng trog đời sống kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, là một phần không thể thiếu trong một xã hội ngày càng hiện đại hoá. Muốn cho học sinh tiếp thu bài tốt, nắm vững được kiến thức bài học người giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tin học hoá các khâu trong quy trình nghiệp vụ từ bài soạn, bì giảng, bài kiểm tra, cách sử dụng đồ dùng dạy học Giáo viên nên soạn giáo án bằng máy vi tính, lưu trữ để bổ sung chỉnh sửa;tiến tới sử dụng giáo án tin học, điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phần mềm vào dạy học. Công nghệ thông tin hiện nay rất phát triển, nếu chúng ta biết khai thác mạng internet để làm đồ dụng trực quan trong giảng dạy sẽ tạo hứng thú cho học sinh ham học tập, nắm chắc kiến thức hơn ở các môn học nói chung và môn Mỹ thuật nói riêng. Việc vận dụng những tranh ảnh của hoạ sĩ và các công trình kiến trúc, điêu khắc trên mạng để làm phương tiện dạy học Mỹ thuận là điều cần thiết phù hợp với thực tế trong việc dạy học theo chương trình thay sách hiện nay. Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm khai thác tốt hình ảnh trực quan môn Mỹ thuật lớp 7 trường THCS” 2.Thực trang:
- 2.1 Đối với học sinh + Chưa hứng thú khi giáo viên giảng bài, thường nói chuyện riêng, luôn có tư tưởng “Vẽ đẹp là sẽ được điểm cao” nên không quan tâm gì đến lý thuyết. + Khi có tiết dạy bằng giáo án điện tử, học sinh chủ yếu quan tâm đến các hình ảnh minh hoạ hay các hiệu ứng trên máy mà rất ít chú ý đến những lời phân tích của giáo viên. + Học sinh ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, các em có cơ hội để tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu, tài liệu, tranh ảnh hoặc các bài viết liên quan tới bài học nên chưa đáp ứng yêu cầu của giáo viên về việc sưu tầm hình ảnh, tài liệu. + Môn Mỹ thuật là môn năng khiếu, vì thế sẽ không ít học sinh coi nhẹ môn này. Khi các em đã không có hứng thú học tập thì các em sẽ suy nghĩ đây chỉ là môn phụ, học để biết và mang tính chất bắt buộc. + Một số học sinh chưa có ý thức trong học tập, vẫn còn một số học sinh cá biệt thường gây mất tập tự trong giờ học, không mang dụng cụ học tập đầy đủ + Do học trên lớp chỉ có 45 phút, thời gian quá ngắn trong khi đó phần lý thuyết lại chiếm 15-20 phút, thời gian còn lại học sinh làm bài thực hành không kịp, nên khi mới vào tiết thì học sinh đã tranh thủ vẽ bài học hôm đó. Nên khi giáo viên giảng bài hay phân tích hình ảnh nào đó thì sự lập trung chú ý của học sinh chưa cao. + Theo cách nhận xét, đánh giá mới(Thông tư số 58) chỉ có 2 mức độ: Đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu. Nên một số học sinh khá giỏi chưa có hứng làm bài tốt, do có cố gắng mấy cũng chỉ bằng với những học sinh trung bình. 2.2 Đối với giáo viên + Giáo viên lên ớp chưa khai thác triệt để các loại đồ dùng dạy học đối với từng phần môn, từng bài. Nên dù là tranh, ảnh có nhiều nhưng hiệu quả giảng dạy chưa cao. + Do điều kiện của trường chưa được cung cấp trang thiết bị đồ dụng dạy học đầy đủ, tranh ảnh, tư liệu nên giáo viên phải tự làm. Vì tính cấp bách của tiết dạy tất cả các khối lớp nên việc làm đồ dùng còn hạn chế và thiếu phong phú. + Tranh ảnh mà giáo viên cho học sinh quan sát chủ yếu là những hình ảnh minh hoạ phóng to từ sách giáo khoa nên chưa phong phú sinh động. + GV dùng từ chuyên môn quá nhiều học sinh chưa nắm bắt bài kịp.
- + Đối với bài giảng điện tử, giáo viên còn đôi khi lại quá chú trọng đến các hiệu ứng View short hình ảnh, màu sắc sặc sỡ nên các yếu tố đó lại gây sự chú ý của học sinh hơn là lời giảng. + Trong cùng một giáo án lại sử dụng nhiều hình ảnh minh hoạ hoặc là tốn thời gian nên giáo viên giới thiệu qua loa, rời rạc hoặc là hình ảnh nào giáo viên cũng phân tích kĩ nên chưa thấy được đâu là trọng tâm, đâu là hình ảnh chính, đâu là hình ảnh minh hoạ thêm. + Chưa nắm vững đối tượng học sinh, giáo viên giảng bài chung cho cả lớp nên có những học sinh yếu, kém chưa nắm bắt được bài. 3. Giải pháp: 3.1. Các bước sử dụng trực quan: a. Sử dụng trực quan đầu giờ để gây hứng thú học tập. + Trực quan gây hứng thú cho học tập được sử dụng ngay sau khi bắt đầu vào giờ học. Có thể cho học sinh xem một bức tranh đẹp và sản phẩm ứng dụng của bài hôm đó, hoặc những tranh có liên quan đến mở rộng bài học. + Đầu giờ, thường dùng tranh ảnh có tính chất mở rộng, liên hệ và phải đẹp. Kết hợp chặt chẽ với thuyết trình, phân tích làm sáng tỏ ý tưởng dẫn dắt để đạt được mục tiêu gây hứng thú cho học sinh. + Trực quan hứng thú học tập có tính chất mở rộng nhưng cần phải sát vói bài học và mang tính cụ thể để dẫn dắt vào bài. b. Sử dụng trực quan để tìm hiểu khái niệm: + Những khái niệm của môn trang trí thường là từ chuyên môn như: Khái niệm chung, khái niệm về mảng, nét, hình ảnh, gam màu Nếu dùng từ ngữ thì rất khó hiểu và nếu không có trục quan thì các em sẽ vướng mắc trong việc chủ động tìm hiểu khái niệm. Trong vấn đề này khi nói những khái niệm trên, chúng ta cần chỉ ngay đến hình ảnh trực qua và kết hợp với phân tích. +Ưu điểm của trực quan là cụ thể, học sinh khi xem trực quan kết hợp mở của giáo viên sẽ dễ dàng trong việc hình thành khái niệm. + Trực quan của phần này thường là kết quả của câu hỏi đặt ra, bởi vậy phương pháp sử dụng thường đi kèm vói hệ thống trực quan phần này thường mang tính cụ thể và được khẳng định. c. Sử dụng trực quan để gợi mở định hướng.
- Mỗi bài tập có những hướng giải quyết cụ thể nhưng để phát huy tính sáng tạo thì phải để học sinh tự nghiên cứu tìm tòi và phát hiện. Để không phải gặp khó khăn cho các em học sinh thì giáo viên phải sử dụng một hệ thống trực quan giúp các em can cứ vào đó đẻ tìm hiểu và phát hiện: - Đối với phần lý thuyết giáo viên nên dùng các câu hỏi kết hợp với việc chỉ ra trên thực tế đối tượng ( tranh, ảnh, hình minh hoạ ) để học sinh quan sát, suy nghĩ và tự tìm cách lí giải hay nhận xét hoặc kết luận của mình. Chẳng hạn: Hai bài này giống nhau và khác nhau ở chỗ nào? (Bố cục, màu sắc ). Em thích bài vẽ nào? Vì sao? - Đối với phần thực hành giáo viên quan sát học sinh làm bài, dựa vào thực tế từng bài vẽ cụ thể, đặt câu hỏi gợi ý, mở ra cách giải quyết sao cho phù hợp với thực lực của mỗi học sinh. + Các câu hỏi phải mang tính khích lệ, động viên, sao cho mỗi học sinh cảm thấy mình cần phải suy nghĩ, tìm kiếm thêm để bài vẽ đẹp hơn, mong muốn có bài vẽ đẹp. + Lời nhận xét, gợi mở tuyệt nhiên không mang tính phủ định, như: “Thế này không đẹp”, hay “ không làm thế này”, “ phải làm lại như thế nay mới đúng ”. + Lời nhận xét câu hỏi phải “ mềm”, và luôn ở dạng nghi vấn. Ví dụ: “ Vẽ thế này cũng được nhưng chưa đẹpcho lắm”. “ Em còn có thể vẽ khác được không?” + Lời nhận xét, câu hỏi gợi mở cần phù hợp với từng đối tượng học sinh như: Đối với học sinh Yếu, kém thì gọi mở cần cụ thể và rõ ràng hơn để học sinh có thể nhận ra chỗ sai ngay. Đối với học sinh trung bình thì gợi mở cụ thể ở những chỗ chưa hợp lí và yêu cầu học sinh quan sát, suy nghĩ và tự điều chỉnh, sửa lại. Đối với hócinh khá thì câu gợi ý nhằm vào những chỗ có vấn đề hay chưa hợp lí về bố cục, hình ảnh, màu sắc và sau đó để học sinh tự điều chỉnh. Đối với học sinh giỏi thì yêu cầu cao hơn, gợi ý để học sinh tự tìm ra những chỗ chưa hợp lí về bố cục, chưa đẹp thứ tự d. Sử dụng trực quan theo tiến trình các bước làm bài: + Bài tập trang trí thường được giải quyết theo thứ tự của các bước làm bài cụ thể, có nghĩa là cách làm một bài vẽ trang trí thường tuân theo một thứ tự cụ thể, có hệ
- thống và lô gic. Vì lẽ đó mà trực quan hơn bao giờ hết sẽ phát huy tác dụng rất tốt, học sinh nhìn vào sẽ dễ hiểu, dễ hiểu, dễ nhớ và nắm đuọc bài rất nhanh và hiệu quả. + Trực quan theo các bước làm bài mang tính chất giáo khoa cụ thể, rõ ràng, mở ra những cách đi từ bắt đến kết thúc, học sinh dễ dàng tiếp thu bài, từ đó sẽ thuận lợi cho nghiên cứu và thực hành. e. Sử dụng trực quan để nhận xét, đánh giá: + Giáo viên chọn bài học sinh: chọn bài vẽ đẹp và bài vẽ chưa đẹp. - Đánh giá kết quả học Mĩ thuật cho học sinh cần dựa vào mục tiêu chương trình ( Giáo dục thị hiếu thẩm mĩ), dựa vào mục tiêu của từng bài, từng giai đoạn, trên cơ sở tiêu chí mà giáo viên đưa ra nhằm rèn luyện kĩ năng cho học sinh. - Đánh giá kết quả học tập mĩ thuật của học sinh còn dựa vào khả năng, nỗ lực, sự tiến bộ của từng lớp, từng cá nhân học sinh. - Cần biết kết quả học mĩ thuật của mỗi tiết dạy được thể hiện cụ thể ở ngay trên từng sản phẩm ( bài tâp) của học sinh nhưng cái “đằng sau” nó là sự vận dụng về thái độ và hành vi còn quan trọng hơn nhiều.Macxigoocki đã nói: “ Tất cả những cái gì do con người tạo nên chứa đựng tâm hồn của nó”. Vì vậy, khi giáo viên gặp những bài vẽ hoàn thành chưa tốt không nên đánh giá nặng nề quá mà hãy động viên và cho phép học sinh về nhà làm lại bài. ( Vì một số học sinh hiểu được, cảm thụ được nhưng rất khó thể hiện). - Khi đánh giá kết quả học mĩ thuậ ở cuối giờ, giáo viên chỉ nên gọi ý cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau. Qua hệ thống câu hỏi gợi ý của giáo viên học sinh nói lên nhận xét, suy nghĩ, cảm nhận của mình cho cả lớp cùng nghe, rồi tự đánh giá mức độ hoàn thành bài của mình để rồi tiếp tục hoàn thiện bài tốt hơn. + Những bài vẽ trên đây, bài nào vẽ đẹp nhất? Vì sao bài đẹp? Đẹp ở chỗ nào? + Bài nào chưa đẹp? vì sao? Làm thế nào cho bài đẹp hơn? + Cuối cùng đánh giá chung cho tất cả các bài, chú ý năng đỡ học sinh kém, động viên, khích lệ học sinh khá giỏi. 3.2. Một số yêu cầu: a. Đối với học sinh: + Cần chú ý nghe giáo viên giảng bài, không làm việc riêng trong giờ học. Xem môn Mĩ thuật quan trọng như tất cả các môn học khác.
- + Có ý thức sưu tầm những tư liệu, hình ảnh theo yêu cầu giáo viên, chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ của tiết học. + Nên quan tâm đến kết quả sản phẩm của mình không nên quá quan tâm đến điểm số, vì như thế sẽ làm giảm hiệu quả chất lượng bài vẽ. b. Đối vơi giáo viên: + Cần khai thác triệt để các loại đồ dùng dạy học, thay đổi phương pháp trình bày, phân tích hình ảnh để hócinh dễ hiểu hơn, có hứng thú hơn. + Có sự sáng tạo trong thiết kế đồ dùng trục quan, không nên quá máy móc, sử dụng những hình ảnh sẵn có trong sách giáo khoa, nên sưu tầm những tư liệu, hình ảnh cho bài dạy phong phú, sinh động hơn. + Đối với tiết dạy giáo án điện tử giáo viên không nên quá cầu kì về mặt hình thức, hay sử dụng những hiệu ứng View show quá nổi bật. + Cần phải biết đâu là trọng tâm, tâm điểm của bài học nên diễn giải lan man. Chú ý đâu là hình ảnh chính, đâu là hình ảnh tham khảo. + Cần nắm rõ đối tượng học sinh Yếu – khá -giỏi từ đó có cách trình bày cho phù hợp, cần hướng dẫn tập trung kĩ hơn đối tượng TB- Yếu. c. Đối với nhà trường: - Cung cấp bộ đồ dùng dạy học môn Mĩ thuật đầy đủ. - Cần có phòng học chức năng riêng có láp đặt hệ thống để dạy giáo án diện tử. 5. Kết luận: Thông quavieecj làm và sử dụng đồ dùng dạy học trên tiết học, giáo dục học sinh tính thẩm mĩ và khơi dậy sự sự tìm tòi ham hiểu biết. Qua một thời gian giảng dạy bản thân nhận thấy việc thực hiện một tiết dạy có sử dụng đồ dùng dạy học trực quan mang lại những kết quả như sau: - Nâng cao hiểu biết làm và sử dụng đồ dung dạy học. - Tạo cho học sinh hứng thú hơn trong học tâp, tiếp thu kiến thức nhanh hơn và đồng thời tạo không khí lớp học sôi nổi hơn. - Giảm bớt được nội dung ghi giảng. từ đó GV có nhiều thời gian tổ chức theo dõi các hoạt động của học sinh. - Thông qua việc làm và sử dụng đồ dùng dạy học trên tiết học, giáo dục học sinh tính thẩm mĩ và khơi dậy sự tìm tòi ham hiểu biết của học sinh






