SKKN Dạy tiết ôn tập môn Ngữ Văn 8 bằng Bản đồ tư duy ở Trường TH&THCS Thụy Bình
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Dạy tiết ôn tập môn Ngữ Văn 8 bằng Bản đồ tư duy ở Trường TH&THCS Thụy Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
skkn_day_tiet_on_tap_mon_ngu_van_8_bang_ban_do_tu_duy_o_truo.pdf
Nội dung text: SKKN Dạy tiết ôn tập môn Ngữ Văn 8 bằng Bản đồ tư duy ở Trường TH&THCS Thụy Bình
- BÁO CÁO BIỆN PHÁP DẠY TIẾT ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 8 BẰNG BĐTD Ở TRƢỜNG TH&THCS THỤY BÌNH 2.Lĩnh vực áp dụng biện pháp: - Dạy học Ngữ Văn lớp 8 - Dạy trong tiết ôn tập phân môn văn của môn Ngữ văn. 3.Mô tả bản chất của biện pháp 3.1.Tình trạng biệnpháp Văn học cũng như bất cứ môn học nào khác ở nhà trường đều cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học cho HS và đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển tư duy người học.Hơn nữa bộ môn Ngữ văn có vai trò quan trọng trong nhà trường phổ thông. Ngoài là môn học công cụ, môn ngữ văn giúp các em hình thành nhân cách con người hướng đến giá trị cao đẹp: Chân – Thiện – Mỹ. Trong quá trình giảng dạy, người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn . Để từ đó HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh. Trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường TH&THCS Thụy Bình, tôi nhận thấy rằng hiện nay nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong tài liệu đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở trường phổ thông nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào môn Ngữ văn đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây hứng thú học tập bộ môn cho HS. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc sâu 1
- kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, đặc biệt là ở các tiết ôn tập tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng BĐTD. Tôi nhận thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển tư duy cho các em. Đặc biệt hơn nữa là trong tiết Ôn tập Ngữ văn thì sử dụng KTDH bằng sơ đồ tư duy thực sự rất hiệu quả. Bởi Ôn tập là một tiết học hệ thống hóa kiến thức của một giai đoạn văn học, thể loại văn học, nhóm kiến thức về tiếng Việt, các kiểu bài trong môn Tập làm văn... của từng phân môn. Vì vậy, tôi đã đưa phương pháp“Dạy tiết ôn tập môn Ngữ văn 8 bằng BĐTD”trong chương trình môn Ngữ văn lớp 8. 3.2. Nội dung biện pháp a. Mục đích của biện pháp: Để có được một tiết dạy ôn tập đạt hiệu quả cao khi sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực thì trước hết GV cần nắm vững kĩ thuật Sơ đồ tư duy về khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích: *Khái niệm: • Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. * Cấu tạo: 2
- • Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề. • Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề. • Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính. • Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó. Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy DỰ ÁN PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC THCS II – BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO 3/24/2014 trandinhchau@moet.edu.vn 1 b.Nội dung của biện pháp b.1. Các bƣớc thiết kế một SĐTD: Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây: Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) 3
- Bước 2:Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm. Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ. Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý,tạo tác động trực quan, dễ nhớ. *Lƣu ý: • Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con. • Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn. • Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn. • Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ. • Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn. • Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề. • Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp. • Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu... • Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài. • Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình. b.2. Làm quen với SĐTD: * Đối với giáo viên: Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có 4
- những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người). * Đối với học sinh: Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, để chí ít các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ. Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen” với SĐTD, theo cách sau đây: * Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng dẫn cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham mưu cho Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” (Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ chức theo khối lớp giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn trường) để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em.(Lưu ý rằng đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ 5
- thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau: + Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy... + Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ, phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau: Bước 1:“Làm quen” • Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD). Bước 2:“Đọc hiểu” • Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình) Bước 3: “Tập vẽ” • Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, Từ (Xét về cấu tạo). Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ. • Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD) * Lƣu ý: + Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ. 6
- + Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ. + Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ ngắn gọn. Bước 4:“Trang trí” • Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng) * Lƣu ý: + Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc, đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian. + Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ, không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian. Bước 5:“Chia sẻ kinh nghiệm” Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt...) • Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung. • Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung: + Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc. + Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó. Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian. + Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên 7
- lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt. + Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ thống kiến thức. Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em, tôi nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng SĐTD. b.3.Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp: Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. b.4. Sử dụng bản đồ tƣ duy trong dạy và học các tiết ôn tập Ngữ văn. a. Nhiệm vụ của học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Trong các tiết ôn tập nếu không có sự chuẩn bị chu đáo,có chất lượng của Hs thì tiết dạy sẽ không thể thành công. Vì vậy giáo viên cần định hướng cho HS chuẩn bị bài ở nhà bằng cách lập một BĐTD về tiết ôn tập. Điều này sẽ bắt buộc HS phải đọc bài và nghiên cứu bài trước, giúp HS nắm được một cách khái quát những điều sẽ có trong bài ôn tập. Ví dụ: Khi soạn bài: Ôn tập truyện kí Việt Nam – Tiết 9 – 10 Ngữ văn 8 – tập 1 thì HS cần xác định và đưa ra được từ khóa là Truyện kí Việt Nam. Xác định có mấy nhánh 8
- cho từ khóa (4 tác phẩm cụ thể). Từ 4 tác phẩm ấy tiếp tục cần ghi nhớ những gì (tác giả, thể loại, phương thức biểu đạt, nội dung, nghệ thuật ). Sau khi xác định xong HS có thể tự lập được một SĐTD. Nếu trong một vài tiết đầu HS còn lúng túng trong quá trình lập SĐTD ở nhà thì GV cần có sự hướng dẫn, sửa chữa để HS có được kĩ năng lập thành công. b. Sử dụng sơ đồ tƣ duy trong dạy các bài Ôn tập trên lớp. Qua thực tế giảng dạy bộ môn tôi thấy rằng bài ôn tập là rất quan trọng nhằm củng cố, hệ thống hóa và khắc sâu kiến thức đồng thời rèn luyện kỹ năng vận dụng tạo lập văn bản. Cấu trúc bài ôn tập thường có 2 phần: - Phần 1: Tổng hợp kiến thức cần nhớ - Phần 2: Luyện tập Cách viết của SGK ở phần 1 thường là hệ thống lại các kiến thức theo kiểu hàng ngang nếu GV không biết vận dụng phương pháp tích cực thì dạy phần này tương đối tẻ nhạt, đơn thuần GV ra câu hỏi HS trả lời, hiệu quả cách dạy này không cao.Khi sử dụng BĐTD để hệ thống hóa các kiến thức của một chương lên trên một tờ giấy trong đó thể hiện đầy đủ các nội dung kiến thức và được đặt trong mối liên hệ của chúng nên HS dễ nhớ và có điều kiện nhớ lâu. Để dạy phần 1 GV có hai phương pháp để triển khai: + Cho HS lập một BĐTD ở nhà về nội dung kiến thức cần nhớ, khi dạy phần này GV tổ chức cho HS nhận xét một vài bản đồ để chọn ra bản đồ hoàn chỉnh nhất sau đó GV có thể bổ sung ý kiến của mình vào để có một bản đồ chuẩn dùng cho HS nắm các kiến thức của bài học. + Giáo viên đưa ra các từ khoá kiến thức để HS triển khai nội dung. Tiết 10: Ôn tập truyện kí Việt Nam – Ngữ văn 8 GV thực hiện nội dung I: Hệ thống hóa kiến thức qua SĐTD bằng các bước sau: - GV gọi 1 HS lên bảng ghi từ khóa. - GV gọi HS thứ 2 lên ghi nhánh cấp độ 1 9
- - 4 nhóm thực hiện các nhánh cấp độ 2 bằng bảng nhóm – treo lên bảng chính theo SĐTD trên bảng, các nhóm đánh giá từ nội dung SĐTD đã được lập ở nhà. - GV trình chiếu SĐTD – HS quan sát, so sánh – GV yêu cầu HS thuyết trình. Trong quá trình HS thuyết trình GV có thể hỏi thêm một số nội dung ôn tập có liên quan. 3.3 Khả năng áp dụng biện pháp - Áp dụng trong dạy tiết 9 – 10 chủ đề 1 “Truyện và kí Việt Nam trước CMT8 năm 1945” trong phân môn Văn – Ngữ Văn 8 3.4 Hiệu quả thu đƣợc 10