SKKN Hướng dẫn học sinh nắm vững các kĩ năng cơ bản để làm tốt kiểu bài văn biểu cảm Lớp 7

pdf 21 trang Minh Phúc 17/04/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh nắm vững các kĩ năng cơ bản để làm tốt kiểu bài văn biểu cảm Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_huong_dan_hoc_sinh_nam_vung_cac_ki_nang_co_ban_de_lam_t.pdf

Nội dung text: SKKN Hướng dẫn học sinh nắm vững các kĩ năng cơ bản để làm tốt kiểu bài văn biểu cảm Lớp 7

  1. phßng gi¸o dôc huyÖn th¸i thôy tr•êng tiÓu häc & thcs thôy b×nh ----------------------- B¸o c¸o biÖn ph¸p: H•íng dÉn häc sinh n¾m v÷ng c¸c kÜ n¨ng c¬ b¶n ®Ó lµm tèt kiÓu bµi v¨n biÓu c¶m líp 7. T¸c gi¶: NguyÔn ThÞ H•¬ng Tr×nh ®é chuyªn m«n: §¹i häc Chøc vô: Gi¸o viªn §¬n vÞ: Tr•êng TiÓu häc & THCS Thôy B×nh. Thôy B×nh, ngµy 10 th¸ng 02 n¨m 2020 1
  2. BÁO CÁO BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên biện pháp: HƢỚNG DẪN HỌC SINH NẮM VỮNG CÁC KĨ NĂNG CƠ BẢN ĐỂ LÀM TỐT KIỂU BÀI VĂN BIỂU CẢM LỚP 7 . 2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp: Lĩnh vực chuyên môn: môn Ngữ văn 7. 3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Hương. Giới tính : Nữ . Ngày tháng năm sinh: 24 - 06 - 1976. Trình độ chuyên môn: Đại học. Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường TH&THCS Thụy Bình. Điện thoại: 0976 391 194; Mail: huongthuybinh3@thaithuy.edu.vn. 4. Đơn vị áp dụng biện pháp : Tên đơn vị: Trường Tiểu học & Trung học cơ sở Thụy Bình. Địa chỉ : Xã Thụy Bình, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. 5. Thời gian áp dụng biện pháp lần đầu: Năm học 2012-2013. 2
  3. II . BÁO CÁO MÔ TẢ BIỆN PHÁP 1. Tên biện pháp: Hƣớng dẫn học sinh nắm vững các kĩ năng cơ bản để làm tốt kiểu bài văn biểu cảm lớp 7. 2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp: Lĩnh vực chuyên môn: môn Ngữ văn 7. 3. Mô tả bản chất của biện pháp: 3.1. Tình trạng biện pháp. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ văn cấp THCS đóng góp một phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển tư duy, năng lực diễn đạt cho học sinh. Vì thế, việc dạy học môn Ngữ văn không chỉ coi trọng việc tìm hiểu văn bản mà còn coi trọng kỹ năng vận dụng kiến thức để tạo lập văn bản, giao tiếp. Với học sinh, mỗi văn bản do các em tạo lập ra chính là một sản phẩm phản ánh năng lực tiếp nhận và sáng tạo của các em. Nếu như văn tự sự (nhất là văn tưởng tượng) và văn miêu tả các em đã được học trong chương trình Ngữ văn 6 kích thích sự tưởng tượng, óc quan sát tinh tế thì văn biểu cảm trong chương trình Ngữ văn 7 nhằm bày tỏ, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, tư tưởng của mình về một đối tượng nào đó trong văn học, nghệ thuật, cuộc sống. Có thể coi mỗi một văn bản là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “bé con” giá trị? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu quả nhất. Sau nhiều lần chỉnh lí và thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình gần đây thì phân môn Tập làm văn ở cấp THCS nói chung, phân môn Tập làm văn lớp 7 nói riêng đã có nhiều thay đổi đáng kể. Trọng tâm của phân môn Tập làm văn lớp 7 là văn biểu cảm và văn nghị luận. Theo phân phối chương trình dạy học hiện tại, về thể văn biểu cảm, học sinh được học 17 tiết trong 3 chủ đề. Trong đó, có 8 tiết học lí thuyết, 2 tiết luyện nói, 1 tiết luyện tập cách làm bài văn biểu cảm và 4 tiết viết bài tập làm văn ( bài viết số 2 và bài viết số 3) và 2 tiết trả bài. Nhìn vào số tiết và khối lượng kiến thức ta có thể nhận thấy thể loại văn biểu cảm là trọng tâm kiến thức của môn Ngữ văn 7. Trong quá trình dạy- học, tôi nhận thấy phần lớn học sinh thích học và học tốt phân môn Văn bản và Tiếng việt nhưng với phân môn Tập làm văn các em lại yếu về kĩ năng tạo lập văn bản, ngại viết văn. Học sinh viết các văn bản đa phần máy móc, rập khuôn. Nhiều em làm văn biểu cảm nhưng lại lạc sang văn miêu tả và văn tự sự mà các em được học ở lớp 6, lời văn biểu cảm khô khan, gượng ép, không tự nhiên... Phần lớn, các em nắm chưa vững về mặt lí thuyết, vì thế việc xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn còn mơ hồ. Việc rèn kĩ năng viết được tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp lên cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh còn hạn chế. Khi viết, các em còn chưa hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số lượng câu cho các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều trường hợp các em viết nhưng chưa xác định cụ thể được đề tài, chủ đề của đoạn văn; lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, chưa lô gíc; chưa biết vận dụng nhiều phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn Những tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân: 3
  4. + Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất phục vụ việc học tập còn hạn chế (thiếu phòng học), nhất là các phương tiện, trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy. + Về phía giáo viên: Trong những năm học trước, giáo viên chuyên dạy lớp 7 chưa có, thường xuyên thay đổi nên chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Do vậy, trong quá trình giảng dạy, bên cạnh các phương pháp chung, giáo viên chưa đưa ra các biện pháp tối ưu, chuyên sâu để rèn kĩ năng viết văn cho học sinh, nhất là với những em yếu kém. + Về phía học sinh: Thụy Bình là một xã thuần nông, học sinh chủ yếu là con em nông dân nên điều kiện kinh tế còn rất khó khăn, hạn hẹp, do vậy các em chưa có điều kiện mua thêm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ cho việc học bộ môn được tốt hơn. Nhận thức của phụ huynh cũng có phần còn hạn chế, còn phó mặc việc giáo dục các em cho nhà trường. Nhiều học sinh chưa có ý thức tự học, tự chuẩn bị bài ở nhà và cho rằng phân môn Tập làm văn khó học, trừu tượng, nên học sinh không thích học. Từ thực tế ấy tôi đã tiến hành điều tra học sinh ở lớp 7 các năm trước. Cụ thể kết quả khảo sát đạt: Bài viết tập làm văn số 2: Yếu:15% ; Trung bình : 44% ; Khá: 34% ; Giỏi: 7 % Bài viết tập làm văn số 3: Yếu 13% ; Trung bình : 42,5% ; Khá 34,5% ; Giỏi: 9% Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy rằng chất lượng bài viết văn biểu cảm của các em còn nhiều hạn chế, tỉ lệ học sinh đạt điểm yếu còn cao. Là người được giao nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn 7, tôi đã cố gắng để tìm ra phương pháp dạy- học tốt nhất để nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói chung, chất lượng bài văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 nói riêng. 3.2. Nội dung biện pháp. 3.2.1. Mục đích của biện pháp. Trước đây, kiểu bài văn biểu cảm được học dưới nhan đề là Tập phát biểu cảm nghĩ đối với tác phẩm văn học (lớp 6) và Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật văn học (lớp 7). Các kiểu bài đó đã thu hẹp phạm vi phát biểu cảm nghĩ vào văn học, tách rời mọi lĩnh vực khác của đời sống. Còn với chương trình đổi mới hiện hành, văn biểu cảm đã khắc phục được điều đó. Chúng ta thấy cảm nghĩ chỉ là một dạng của văn biểu cảm. Biểu cảm là một lĩnh vực rộng lớn, không tách rời với suy nghĩ mà gắn với toàn bộ đời sống tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá và nhu cầu biểu cảm của con người: từ cảm xúc đối với người thân trong gia đình đến cảm xúc đối với bạn bè, thầy cô; từ tình cảm đối với đồ vật, phong cảnh làng quê đến tình yêu Tổ quốc; từ tình cảm đối với các giá trị đạo đức đến văn học nghệ thuật. Học thể loại văn này, học sinh không chỉ hiểu được đặc điểm của văn biểu cảm mà còn có dịp trau dồi kĩ năng biểu đạt mọi cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống. Hơn nữa, văn biểu cảm không chỉ được dạy học ở lớp 7 mà còn tiếp tục được học ở các lớp trên trong chương trình THCS, làm nền tảng cho chương trình THPT. Vậy trong vai trò là người hướng dẫn, người dạy cần làm gì và làm như thế nào để học sinh có kỹ năng làm bài văn biểu cảm, phát huy tính tích cực, tính chủ động và khả năng sáng tạo của học sinh để các em không chỉ viết đoạn văn, bài văn biểu cảm thuần thục, nhuần nhuyễn, sinh động, có sức thuyết phục lòng người hơn chứ không đơn thuần là kể, tả? Làm thế nào để góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo và giúp học sinh trau dồi, rèn luyện những tình cảm đẹp như yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu Tổ quốc và ghét những thói tầm thường, độc ác, xấu xa, ích kỉ, nhỏ nhen ? Tôi nghĩ đây là một vấn đề quan trọng đặt ra đối với mỗi giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn. Do đó, tôi thấy việc“ Hướng dẫn học sinh nắm vững các kĩ năng cơ bản 4
  5. để làm tốt bài văn biểu cảm lớp 7” là rất cần thiết. Nó giúp các em nắm được các kĩ năng cơ bản trên để viết một đoạn văn, bài văn biểu cảm đúng với yêu cầu của đề, thể hiện năng lực viết văn biểu cảm của bản thân. Thông qua đó nuôi dưỡng tâm hồn các em hướng tới “chân”, “thiện”, “ mĩ”; giúp các em dần hoàn thiện nhân cách của mình. Xuất phát từ mục đích ấy, tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, biện pháp với mục đích trao đổi cùng các đồng chí đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy- học môn Ngữ văn 7 nói chung, kiểu bài văn biểu cảm nói riêng. 3.2.2 Nội dungcủa biện pháp: a.Tính mới của biện pháp. Qua tìm hiểu, tôi thấy vấn đề này đã có người nghiên cứu nhưng chỉ mới nêu kiến thức lí luận chung chung về các thể loại văn bản và chỉ mới đề cập đến một phạm vi biểu cảm là“ biểu cảm về tác phẩm văn học”, chưa đưa ra những kĩ năng và giải pháp cụ thể để học sinh áp dụng vào quá trình thực hành viết đoạn văn, bài văn biểu cảm và đồng nghiệp cũng rất khó áp dụng vào việc giảng dạy. Trong báo cáo này tôi sẽ trình bày biện pháp cụ thể để học sinh dễ dàng vận dụng vào trong quá trình tạo lập một văn bản biểu cảm. Từ quá trình nghiên cứu và thực hiện giảng dạy theo những giải pháp trên, tôi nhận thấy học sinh làm một bài văn biểu cảm đúng yêu cầu và đạt kết quả khả thi. Đây là biện pháp cơ bản, dễ hiểu, dễ áp dụng cho tất cả giáo viên và học sinh thuộc các vùng miền khác nhau, kể cả đối với những giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đầy đủ. b. Các bƣớc thực hiện của biện pháp. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: trước khi hướng dẫn học sinh các kĩ năng cơ bản đề làm tốt kiểu bài văn biểu cảm thì điều đầu tiên là mỗi thầy cô phải giúp cho các em nắm chắc đặc điểm của văn biểu cảm. Đầu tiên, học sinh phải hiểu được văn biểu cảm (văn trữ tình) là kiểu văn bản có nội dung biểu đạt tư tưởng, tình cảm, bộc lộ những cảm xúc của người viết- thường là những ấn tượng thầm kín, sâu sắc về con người, về sự vật, về những kỉ niệm, những hồi ức khó quên trong cuộc đời mỗi con người. Vì thế, văn biểu cảm có khả năng khơi gợi những cảm xúc chân thành ở người đọc, tạo sự đồng cảm giữa người đọc và người viết. Như vậy, văn biểu cảm ra đời là để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người. Khi vui, khi buồn, khi hạnh phúc hay đau khổ, bất hạnh, bao giờ con người cũng muốn được thổ lộ, giãi bày, chia sẻ. Thường thì mỗi bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu. Tình cảm ấy được bộc lộ trực tiếp thông qua những suy nghĩ, những nỗi niềm, những cảm xúc trong lòng người. Tuy nhiên trong thực tế, khi viết văn biểu cảm (dù ở dạng thơ hay văn xuôi), người ta vẫn thường hay kết hợp sử dụng những phương thức khác như miêu tả, tự sự để bộc lộ thái độ, tình cảm gián tiếp thông qua những đối tượng, những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Ví dụ: Trong văn bản Cổng trường mở ra, để diễn tả nỗi xúc động, sự hồi hộp của người mẹ trong đêm trước ngày khai trường đầu tiên của con, ngoài việc sử dụng cách bộc lộ tình cảm trực tiếp (người mẹ thầm trò chuyện với con- và cũng là đang nói chuyện với lòng mình), tác giả Lí Lan còn để cho người mẹ nhớ lại những câu chuyện, những sự việc có liên quan tới con, hồi ức cả về kỉ niệm đã xa trong cuộc đời mẹ (phương thức tự sự). 5
  6. Tuy nhiên, khi vận dụng phương thức miêu tả và tự sự vào văn biểu cảm thì cũng cần lưu ý: có tả thì cũng không thể miêu tả một cách cụ thể, chi tiết mọi khía cạnh của đối tượng; có kể thì cũng không thể kể một cách chi tiết, đầy đủ, rõ ràng tất cả mọi sự việc, hành động. Người viết văn biểu cảm chỉ chọn những đặc điểm, những sự việc, những thuộc tính nào có khả năng gợi cảm để biểu hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Về bố cục, bài văn biểu cảm cũng được tổ chức theo mạch cảm xúc của người viết. Do vậy, trình tự các ý, các phần trong văn biểu cảm thường được sắp xếp rất tự nhiên và linh hoạt, không gò bó, cứng nhắc. Về thái độ, tình cảm, phải đảm bảo tính chân thực, trong sáng, rõ ràng, có nghĩa là không được giả dối, sáo rỗng. Có như vậy, văn biểu cảm mới đi vào lòng người. Giáo viên cần cho học sinh thấy nhu cầu biểu cảm rất lớn của con người, bởi con người có tình cảm và có nhu cầu giao lưu tình cảm. Nhưng không phải tình cảm nào cũng viết thành văn biểu cảm. Những tình cảm tầm thường, nhỏ nhen như đố kị, tham lam, ích kỉ, thì dù có viết ra, cũng không nhận được sự đồng cảm từ phía người đọc. Những tình cảm trong văn biểu cảm phải là tình cảm đẹp: nhân ái, vị tha, cao thượng, tinh tế. Nó góp phần làm phong phú tâm hồn người, nâng cao phẩm giá con người . Cho nên muốn viết văn biểu cảm hay, học sinh cần phải tu dưỡng tình cảm, đạo đức cao đẹp, trong sáng. Vì vậy, từ việc nghiên cứu kĩ kiến thức lí thuyết và thực hành các tiết luyện tập thể loại văn biểu cảm, tôi rút ra được một số giải pháp để rèn cho học sinh các kĩ năng cơ bản sau đây: b.1. Kĩ năng tìm hiểu đề. Đây là một yêu cầu quan trọng khi tìm hiểu đề. Người viết phải căn cứ vào các từ ngữ và cấu trúc của đề bài để xác định nội dung tư tưởng, tình cảm mà bài viết sẽ hướng tới. Cần đọc kĩ đề bài để có cái nhìn tổng quát, chú ý không bỏ sót một chi tiết nào để tránh hiểu sai. Mục đích của việc rèn kĩ năng này là giúp học sinh xác định đúng yêu cầu, thể loại, đối tượng của đề; tránh xa đề, lạc đề, sai đề ảnh hưởng lớn đến kết quả bài làm. Bƣớc1. Cho học sinh tiếp xúc với những đề văn biểu cảm. Khi ra đề, giáo viên cần chú ý đến tính đa dạng và toàn diện trong cách thức ra đề cũng như nội dung và đối tượng biểu cảm. Nghĩa là phải có cả đề biểu cảm về thế giới xung quanh như cây cối, đồ vật, con người, phong cảnh và cả đề biểu cảm về một tác phẩm văn học; cả đề có mệnh lệnh và đề mở. Trong chương trình có dành một tiết cho học sinh tìm hiểu đề và cách làm bài văn biểu cảm. Khi dạy bài này, để tiết kiệm thời gian, tôi ghi các đề văn lên bảng phụ hoặc ứng dụng công nghệ thông tin để trình chiếu các đề cho học sinh quan sát: Đề 1: Cánh diều tuổi thơ. Đề 2: Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ. Đề 3: Loài cây em yêu. Đề 4: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh. Đề 5: Cảm nghĩ về người thân. Đề 6: Vui buồn tuổi thơ. 6
  7. Tiếp theo, tôi gọi học sinh đọc qua một lượt các đề trên và đặt câu hỏi hướng dẫn học sinh nhận diện đề. Đề văn biểu cảm bao giờ cũng nêu ra đối tượng biểu cảm và tình cảm cần biểu hiện. Bƣớc 2. Hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu cấu trúc của từng đề văn biểu cảm. Cấu trúc của từng đề văn biểu cảm thường ngắn gọn, rõ ràng, nêu ra đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm được tách bạch rạch ròi. Ví dụ đề: Cảm nghĩ về dòng sông quê hương. - Đối tượng biểu cảm là dòng sông quê hương. - Định hướng tình cảm là cảm nghĩ . Cũng có trường hợp, đề văn biểu cảm chỉ nêu chung, buộc người viết phải tự xác định đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm. Ví dụ đề: Cánh diều tuổi thơ. - Đối tượng biểu cảm là cánh diều tuổi thơ. -Từ đối tượng ấy, học sinh tự mình định hướng tình cảm để viết bài. Tình cảm đó có thể là: tình yêu, nỗi nhớ dành cho một hình ảnh quen thuộc gắn bó với bao kí ức tuổi thơ, qua đó gửi gắm những ước mơ, hoài bão Đối tượng biểu cảm thường là sự vật, phong cảnh, cây cối, con người (gọi chung là thế giới xung quanh). Đối tượng biểu cảm còn là một nhân vật văn học hoặc một tác phẩm văn học. Từ ngữ thể hiện yêu cầu hoặc định hướng tình cảm là cảm nghĩ hoặc phát biểu cảm nghĩ. Và có đề văn biểu cảm nêu chung, buộc người viết tự xác định đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm như đã tìm hiểu cấu trúc các đề trên. Bƣớc 3. Hƣớng dẫn học sinh cách phân loại đề. Cách thức ra đề văn biểu cảm rất đa dạng, tôi cho học sinh phân loại đề bằng các dạng sau: - Dạng 1: đề có chứa từ ngữ thể hiện yêu cầu biểu cảm như Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về hoặc Cảm nghĩ về . . . Ví dụ: Phát biểu cảm nghĩ về loài cây em yêu thích hoặc cảm nghĩ về loài cây em yêu thích. - Dạng 2: đề không chứa từ ngữ thể hiện yêu cầu biểu cảm mà người viết tự xác định. Ví dụ: Loài cây em yêu. - Dạng 3: đề đưa ra đối tượng biểu cảm trực tiếp như hai ví dụ trên. - Dạng 4: đề đưa ra đối tượng biểu cảm dưới dạng là một thông điệp nào đó được rút ra trong một văn bản đã học. Ví dụ: Trong bức thư của bố gửi con, có đoạn: “En-ri-cô này! Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó.” 7
  8. Đóng vai En-ri-cô, nhân vật trong văn bản “Mẹ tôi” của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình khi đọc được những dòng thư đó. - Dạng 5: đề đưa ra đối tượng biểu cảm là một nhân vật trong một tác phẩm đã học. Ví dụ: Cảm nghĩ của em về nhân vật Lượm trong bài thơ cùng tên của Tố Hữu. - Dạng 6: đề đưa ra đối tượng biểu cảm là một tác phẩm văn học ( Một bài thơ, một bài ca dao, một câu chuyện, một bài tùy bút, ). Ví dụ: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh. Như vậy ta có thể thấy: tuy đa dạng trong cách thức ra đề nhưng yêu cầu chung của các dạng đề này là làm một bài văn với thể loại biểu cảm chứ không thể làm sang một thể loại nào khác được. Các dạng đề trên, tôi đã gộp lại thành ba dạng cơ bản sau: - Dạng 1: Đối tượng biểu cảm là thế giới xung quanh (như con người, phong cảnh, sự vật, ). - Dạng 2: Đối tượng biểu cảm là một nhân vật, một hình ảnh trong tác phẩm văn học. - Dạng 3: Đối tượng biểu cảm là một tác phẩm văn học. b.2. Kĩ năng tìm ý và lập ý. * Kĩ năng tìm ý. Mục đích của việc rèn luyện kĩ năng này là giúp học sinh tránh thiếu ý, sai ý và trình tự sắp xếp các ý trong bài văn biểu cảm. Kĩ năng tìm ý và lập ý chỉ có thể thực hiện khi đã hoàn thành tốt kĩ năng thứ nhất. So với kĩ năng thứ nhất (nhận dạng, phân loại đề) thì kĩ năng này khó thực hiện hơn và ít được học sinh thực hiện hơn khi bắt tay vào viết bài. Bởi để tìm ý thì học sinh phải thật sự hiểu cấu trúc của từng dạng đề, hiểu yêu cầu của từng đề để đặt ra những câu hỏi tìm ý cho phù hợp với đối tượng biểu cảm. Đây là việc mà không phải bất kì học sinh nào cũng làm được, nhất là đối với những học sinh trung bình, yếu. Chính vì thế, lỗi sai về thiếu ý, lặp ý là phổ biến. Có nhiều học sinh viết bài rất nghèo nàn về ý. Vậy cần phải tiến hành kĩ năng này như thế nào? Trước hết, tôi yêu cầu các em phải xác định được đúng dạng đề, đúng đối tượng mà các em cần biểu cảm, sau đó hướng dẫn học sinh tìm ý cho từng dạng đề bằng hệ thống câu hỏi như sau: Dạng 1: Đối tƣợng biểu cảm là con ngƣời, sự vật. Với dạng đề này, tôi có hệ thống câu hỏi: - Đối tượng mà em cần bộc lộ tình cảm, cảm xúc trong đề văn là gì? (tìm đối tượng) - Đối tượng đó có mối quan hệ với em như thế nào? - Tìm đặc điểm tiêu biểu của đối tượng? - Em có những tình cảm gì về đối tượng? - Đối tượng đó có gợi cho em kỉ niệm gì? - Em sẽ chọn chi tiết, đặc điểm tiêu biểu nào để tả, qua đó gửi gắm, bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình? - Em sẽ chọn chi tiết nào để kể, qua đó bộc lộ tình cảm, cảm xúc? 8
  9. Dạng 2: Đối tƣợng biểu cảm là một hình ảnh hay một nhân vật trong tác phẩm văn học. Với đối tượng này thì học sinh phải dựa vào tác phẩm văn học của tác giả. Vì trong tác phẩm, tác giả đã làm nổi bật nhân vật qua những chi tiết miêu tả hành động, tính cách, ngoại hình, hoàn cảnh, diễn biến tâm lí của nhân vật. Từ đó, học sinh bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về nhân vật một cách dễ dàng.Với dạng đề này tôi đặt ra các câu hỏi để tìm ý như sau: - Đối tượng biểu cảm là ai? Trong tác phẩm nào? Của tác giả nào? - Hoàn cảnh em tiếp xúc với tác phẩm, với nhân vật đó: được học hay được đọc, được nghe ở đâu? - Những chi tiết tiêu biểu của nhân vật mà tác giả đã thể hiện trong tác phẩm? - Đọc tác phẩm, hiểu được nhân vật, em có những cảm xúc gì về nhân vật? (yêu mến, tự hào, ca ngợi, khâm phục, ngưỡng mộ ) - Qua nhân vật đó, em có thể học hỏi được điểm tốt nào và rút ra được bài học gì trong cuộc sống? Dạng 3: Đối tƣợng biểu cảm là một tác phẩm văn học. Với đối tượng là một tác phẩm văn học thì học sinh phải nắm vững nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật của tác phẩm mà tác giả đã thể hiện trong tác phẩm. Biểu cảm về tác phẩm văn học là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, suy ngẫm của mình về nội dung và hình thức của tác phẩm đó. Đây là một đối tượng biểu cảm đặc biệt, vì tác phẩm văn học bao giờ cũng là một tác phẩm tinh thần mang tính nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Như vậy có nghĩa là khi phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học, chủ thể biểu cảm phải huy động cả tâm hồn, cả trí tuệ để cảm nhận những cái hay, cái đẹp, cái giá trị cao nhất (cả về nội dung lẫn nghệ thuật) của tác phẩm văn học; đồng thời phải lĩnh hội và thể hiện được những thông điệp mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm của mình. Quá trình biểu cảm tập trung vào cả hai giá trị của tác phẩm văn học: - Nêu cảm nghĩ về giá trị nội dung: Là những rung động, những ấn tượng sâu sắc, những cảm nghĩ về chủ đề tư tưởng của tác phẩm, về những tầng ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa sau các chi tiết, các hình ảnh. Từ đó suy ngẫm về bức thông điệp mà tác giả gửi gắm trong đó. - Nêu cảm nghĩ về giá trị nghệ thuật: Là những phát hiện về các nét nghệ thuật độc đáo, sáng tạo của tác phẩm (ngôn ngữ, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật, ); những cảm nhận về tài năng nghệ thuật của tác giả. * Kĩ năng lập ý Tình cảm con người vốn dĩ rất đa dạng, phong phú. Cách biểu lộ tình cảm cũng muôn hình muôn vẻ. Do đó, việc lập ý cho một bài văn biểu cảm cũng không nên máy móc, rập khuôn theo những mẫu cố định. Tùy thuộc vào từng đối tượng biểu cảm, tùy thuộc vào cả quy luật tình cảm cũng như thói quen suy nghĩ, biểu cảm của con người để tìm cách lập ý. Có thể dùng những cách lập ý thường gặp sau đây: Cách thứ nhất: Liên hệ hiện tại với tƣơng lai: Là hình thức dùng trí tưởng tượng để liên tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng biểu 9
  10. cảm trong hiện tại. Cách biểu cảm này tạo nên mối liên hệ gắn kết rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa hiện tại với tương lai. Ví dụ: “Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi măng cốt sắt. Nhưng, nứa, tre, sẽ còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hòa bình. Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dẫn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi. Cây tre Việt Nam! Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm. Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quí của dân tộc Việt Nam.” (Thép Mới, “Cây tre Việt Nam”) Cách thứ hai: Hồi tƣởng quá khứ và suy nghĩ về hiện tại: Là hình thức liên tưởng tới những kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỉ niệm để từ đó suy nghĩ về hiện tại. Đây cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc của con người trở nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ gắn kết rất nhuần nhuyễn và tự nhiên giữa quá khứ và hiện tại. Ví dụ: “Trong các món đồ chơi, tôi say mê nhất là con gà đất: một chú trống đẹp mã, oai vệ, với chiếc kèn lá tơi cài vào ức để tạo ra tiếng gáy. Đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm nhận được niềm vui kì diệu ấy tái sinh trong tâm hồn, khi nhớ lại buổi sáng sớm, tôi mang con gà ra đứng trước thềm, ấp nó giữa lòng bàn tay, dồn hơi đầy ngực, ngửa mặt lên trời và gập người dần dần lúc hạ giọng, giống y như dáng điệu con gà lúc gáy. Còn gì vui hơn với một đứa bé, khi nó được hóa thân thành con gà trống để dõng dạc cất lên điệu nhạc sớm mai: “Ó ò o”! Bây giờ tôi hiểu ra, những đồ chơi trẻ con thời ấy rất hấp dẫn bởi chính tính mong manh của chúng. Chiếc trống lùng tung bị thủng trong chốc lát, con ve bị đứt dây, con gà đất rồi cũng vỡ trên tay đứa bé. Vâng, thử tưởng tượng một quả bong bóng không bao giờ vỡ, không thể bay mất, nó cứ còn mãi như một vật lì lợm Ôi, nếu thế thì còn đâu là quả bong bóng bay? Đồ chơi trẻ con, đó là nỗi vui mừng khi có được trong tay, và còn là nỗi tiếc nuối khi bỗng dưng bị mất nó. Những con gà đất lần lượt vỡ dọc theo tuổi thơ mãi để lại trong tôi một nỗi gì sâu thẳm, giống như một linh hồn.” (Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường-“Người ham chơi” ) Cách thứ ba: Tƣởng tƣợng tình huống, hứa hẹn, mong ƣớc: Là hình thức liên tưởng phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và gửi gắm vào đó những suy nghĩ, cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như những ước mơ, hi vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải có trí tưởng tượng phong phú. Ví dụ: “Cô vừa đi vừa hỏi tôi: - Bây giờ em đã giải được những bài toán khó, đã làm được những bài luận dài rồi đấy. Vậy em còn yêu mến cô giáo cũ của em nữa không? Và khi xuống đến chân cầu thang, cô nói to với tôi: - Đừng quên cô nhé! 10