Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Bếp lửa

pptx 18 trang minh70 21990
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Bếp lửa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptxbai_giang_ngu_van_9_bai_bep_lua.pptx

Nội dung text: Bài giảng Ngữ văn 9 - Bài: Bếp lửa

  1. BẾP LỬA BẰNG VIỆT
  2. I/ Tác giả- tác phẩm 1/ Tác giả: • Về tiểu sử :Bằng Việt tên thật là Nguyễn Việt Bằng, ông sinh tại thành phố Huế và học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý ở Liên Xô vào năm 1965, Bằng Việt công tác tại Viên Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Năm1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới. • Về phong cách viết : Thơ ông có chất giọng trong trẻo, mượt mà, thường khai thác những kỷ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên được rất nhiều bạn đọc trẻ tuổi nhất là những học sinh trong nhà trường đón nhận.
  3. b/ Tác phẩm: • Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 khi đang là sinh viên học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm được đưa vào tập Hương Cây-Bếp Lửa ; đây là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ được xuất bản vào năm 1968 (“ Hương Cây” của Lưu Quang Vũ, “Bếp lửa” của Bằng Việt). • Đề tài : Thi phẩm đã khắc họa chân thực hình ảnh bếp lửa gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung, tình cảm yêu thương xen lẫn thái độ cảm phục của mình đối với người bà kính yêu. Kết cấu: Bài thơ có bảy khổ nhỏ, được chia thành 3 đoạn: -Đoạn 1: khổ 1: bếp lửa khơi nguồn cảm xúc -Đoạn 2: khổ 2->khổ 5: hình ảnh người bà và bếp lửa trong những dòng hoài niệm -Đoạn 3: khổ 6 và 7 : suy ngẫm của tác giả về người bà trong hiện tại và nỗi niềm thương nhớ bà của người cháu xa quê.
  4. II/ Tìm hiểu văn bản: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” => Hình ảnh của bếp lửa khởi gợi tình thương nhớ bà một cảm xúc dâng trào tha thiết. - Từ láy “chờn vờn”gợi hình ảnh ngọn lửa khi mờ, khi tỏ, khi cao, khi thấp tựa kí ức đang chập chờn hiện về trong lòng cháu. - Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn, và tấm lòng người nhóm bếp giữ sao cho ngọn lửa thêm nồng đượm. → Điệp ngữ “ một bếp lửa” ở 2 đầu câu thơ liên tiếp kết hợp với 2 từ láy giàu sức gợi “ chờn vờn, ấp iu” đã nhấn mạnh hình ảnh kỉ niệm sâu sắc với sức ám ảnh mạnh mẽ trong lòng đứa cháu phương xa.Nó đã trở thành hình tượng xuyên suốt bài thơ.
  5. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” - Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ trong khung cảnh “ biết mấy nắng mưa”. - “Nắng mưa”-> không chỉ là sự trái gió trở trời của thiên nhiên mà còn là sự ẩn dụ cho cuộc đời lận đận, gian nan của bà -> tình cảm xúc động nghẹn ngào. - Từ “ thương “-> yêu quý, kính trọng, xót xa khi cháu nghĩ về bà. → Khổ thơ mở đầu đã xuất hiện một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích. → Từ đó, sức ấm và ánh sáng của nó lan toả toàn bài → Tựa nỗi nhớ bất diệt của cháu đối với bà lúc nào cũng ấm nóng, da diết, thiết tha.
  6. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
  7. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói → Kí ức thời gian cụ thể khó quên → Chi tiết gợi nhớ đến mùi khói bếp của bà, mùi khói của nhà bếp đốt lên như để xua đi mùi tư khí-> kí ức buồn về trận đói lịch sử 1945. Năm ấy là năm đói mòi đói mỏi → Thành ngữ hình ảnh làng quê xơ xác , tiêu điều Bố đi dánh xe , khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu → Hình ảnh gợi nhớ tuổi thơ cơ cực và hình ảnh đất nước mòn mỏi tang thương trong nạn đói năm Ất Dậu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay ! → Chi tiết “ sống mũi cay cay “ : khi nhớ về kí ưc tuổi thơ lúc lên bốn gợi lên nhiều cảm xúc : “cay” vì thương tuổi thơ cơ cực của mình , thuơng cho đời bà lận đận và thương cho đất nước mình gian nan . Hình ảnh người bà trong đoạn thơ tuy không hiện ra rõ nét nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái bóng lặng lẽ tần tảo sớm hôm với bếp lửa nhà nghèo và chính tấm long ấy của bà cháu đã qua được nạn đói. → Tình thương nhớ bà tha thiết gợi lên cả một thời thơ ấu bên bà
  8. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế Mẹ cùng cha bận công tác không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà, Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
  9. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa → Con số cụ thể gợi tả thời gian tiếp trôi, cháu lớn lên bên bà và bếp lửa, cháu bước vào tuổi thiếu niên Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế Mẹ cùng cha bận công tác không về → ấn tượng tuổi thiếu niên của cháu là tiếng tu hú khi gần khi xa như chia sẻ nỗi cô đơn của 2 bà cháu Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học. Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, → Bà vừa là cha, lại vừa là mẹ Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên. Các cặp từ bà-cháu sống đôi thể hiện sự gắn bó thân thiết Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà, Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ? → Tiếng chim kêu quen thuộc trên những cánh đồng quê càng làm sống dậy những nhớ mong cháu muốn được sống bên bà. Âm điệu buồn, da diết thể hiện cảm xúc chân thành của nhà thơ
  10. Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi, Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh. → Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Vẫn vững lòng, bà dặc cháu đinh ninh: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. → lời bà dặn cháu hết sức nôm na giản dị nhưng vẫn toát lên sự hi sinh gian khổ về hết cho mình để các con an lòng toàn tâm toàn ý ngoài mạc trận
  11. Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng → Từ “bếp lửa” thành “ngọn lửa” là hành trình đi từ cái giản đơn bình dị đến cái cao cả, thiêng liêng, ngọn lửa là linh hồn của bếp lửa. → Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian:“rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam .
  12. Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa -Cụm từ “ biết mấy nắng mưa “ được lặp lại giống khổ thơ thứ nhất của bài thơ. - Cuộc đời người bà được gói gọn trong hai chữ “lận đận“. Bao nhiêu khó khăn, vất vả, gian nan, “biết mấy nắng mưa”, bà âm thầm chịu đựng tất cả để được lo lắng chăm sóc cho con cháu. => Người bà chịu nhiều gian lao vất vả, giàu niềm hi sinh Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Hình ảnh ước lệ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm - Đã mấy chục năm rồi, dẫu mọi thứ có đi qua nhưng bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” - Mặc dù là người thức khuya dậy sớm, chịu nhiều vất vả trong nhà nhưng bà cũng chính là người nhóm lên trong gia đình ngọn lửa của tình yêu thương:
  13. Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ - Từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng tác giả ngọn lửa của tình yêu thương, của đực hy sinh cao cả: + Khi nhóm lên “ bấp lửa ấp iu nồng đượm”, bà đã dạy cho tác giả tình yêu thương những người ruột thịt + khi nhóm tình quê “ khoai sắn ngọt bùi “, bà đã dạy tác giả tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. + Khi “ nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui “, bà đã dạy tác giả phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh => Không chỉ truyền lửa, bà còn là người giữ cho ngọn lửa đó ấm nồng và cháy sáng mãi. Người bà kì diệu ấy đã nhóm dậy, giáo dục, bồi đắp cho người cháu về cả thể xác lẫn tâm hồn, về ước mơ, lẽ sống của “tâm rình tuổi nhỏ” Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa ! - Câu thơ chỉ có tám chữ nhưng khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa đã gắn liền với hình ảnh người bà – người nhóm lửa, truyền lửa, giữ lửa.
  14. Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu - Hình ảnh “ ngọn khói “ ở khổ thơ này cũng là khói nhưng không phải là khói của bếp lửa năm nào, khói bếp tuy làm tác giả cay mắt nhưng đong đầy tình yêu thương còn khói của tàu tuy không cay nhưng đối với tác giả là một thứ gì đó lạ lẫm. Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Thể hiện sự đối lập Gợi sự nhớ thương da diết, dai dẳng - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? - Bài thơ được kết thúc bằng một câu hỏi tu từ như một lời khẳng định hình ảnh bất diệt của bếp lửa trong tâm hồn của tác giả. Bếp lửa vẫn luôn cháy âm ỉtrong tâm hồn mặc dù tác giả đang ở nơi phương xa chốn đô thị phồn hoa.
  15. TỔNG KẾT Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị; hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc -> bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tình bà cháu ấm nồng, thiết tha ->Qua đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với tình yêu thương xen lẫn cảm phục đối với người bà kính yêu