Chuyên đề Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm Văn học của Học sinh THCS
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm Văn học của Học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
chuyen_de_doi_moi_phuong_phap_kiem_tra_danh_gia_voi_viec_ren.doc
Nội dung text: Chuyên đề Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm Văn học của Học sinh THCS
- CHUYÊN ĐỀ: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VỚI VIỆC RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ TIẾP NHẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA HỌC SINH THCS. PHẦN MỞ ĐẦU Kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ văn là hoạt động giáo viên kiểm tra các năng lực của học sinh. Bộ giáo dục và đào tạo đã đề xuất mục tiêu và chuẩn chương trình giáo dục sau 2015 trong đó nêu ra các phẩm chất và năng lực các bộ môn, dựa trên cơ sở đó để đề xuất các năng lực chuyên biệt. Dựa trên các năng lực cốt lõi đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất, dựa trên quan niệm “năng lực phổ thông”, các năng lực chuyên biệt cần được hình thành cho HS trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông, gồm: Đọc hiểu văn bản, tạo lập văn bản và năng lực sử dụng Tiếng Việt. Trong đó năng lực Đọc – Hiểu văn bản là năng lực quan trọng giáo viên cần tổ chức cho học sinh rèn luyện trong quá trình học tập môn Ngữ văn. Mục tiêu cuối cùng là học sinh có được năng lực tự tiếp nhận văn bản. Chính vì thế việc kiểm tra đánh giá năng lực tự tiếp nhận văn bản của học sinh là vô cùng 1
- quan trọng. Kiểm tra đánh giá giúp giáo viên xác định chính xác năng lực, mức độ tiếp nhận trong quá trình thực hiện các hoạt động học tập của từng học sinh. Từ đó giáo viên sẽ có biện pháp phù hợp từng đối tượng học sinh nhằm giúp các em phát huy tối đa năng lực của mình. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu đối tượng học sinh trong trường nơi mà tôi công tác và nhận thấy nếu có phương pháp kiểm tra đánh giá phù hợp sẽ góp phần rất lớn trong việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận văn bản của học sinh, và hiệu quả dạy học sẽ được nâng cao rõ rệt. Chính vì thế, tổ văn chúng tôi mạnh dạn xây dựng chuyên đề: “ Kiểm tra đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học của học sinh THCS”. Chúng tôi tin chuyên đề của mình sẽ góp phần nhỏ trong việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học mà nền giáo dục nước nhà đang triển khai. PHẦN NỘI DUNG A. Giới thiệu chung Như chúng ta đã biết, kiểm tra, đánh giá là một phần không thể thiếu được của quá trình dạy học. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của kiểm tra đánh giá là vì sự tiến bộ của HS. Kiểm 2
- tra đánh giá vì sự tiến bộ nghĩa là quá trình kiểm tra đánh giá phải cung cấp những thông tin phản hồi giúp HS biết mình tiến bộ đến đâu, những mảng kiến thức/kĩ năng nào có sự tiến bộ, mảng kiến thức/kĩ năng nào còn yếu để điều chỉnh quá trình dạy và học. Và khi nói đến đánh giá là vì sự tiến bộ của HS thì đánh giá phải làm sao để HS không sợ hãi, không bị thương tổn để thúc dẩy HS nỗ lực. Đánh giá vì sự tiến bộ của HS còn có nghĩa là sự đánh giá phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp HS so sánh phát hiện mình thay đổi thế nào trên con đường đạt mục tiêu học tập của cá nhân đã đặt ra. Đối với môn Ngữ văn, kiểm tra đánh giá có vai trò to lớn trong việc rèn luyện các năng lực cho học sinh. Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn là Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân môn này là ba môn độc lập, có SGK riêng) gồm hai phần ngữ và văn gắn bó với nhau, bởi “ngôn ngữ là chất liệu làm nên văn học và văn học chính là nghệ thuật của ngôn ngữ”. Bởi thế việc rèn luyện năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học là nhiệm vụ trọng tâm của giáo viên dạy môn Ngữ văn. Giáo viên chỉ có thể rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học của học sinh một các tốt nhất khi giáo viên hiểu được từng em học sinh có năng 3
- lực tiếp nhận ở đâu. Để làm được điều đó giáo viên phải thực hiện kiểm tra đánh giá. Như vậy, kiểm tra đánh giá có ý nghĩa to lớn trong việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm của học sinh. Cần nhận thức rằng đánh giá là một quá tŕnh học tập, đánh giá diễn ra trong suốt quá trình dạy và học. Không chỉ GV biết cách thức, các kĩ thuật đánh giá HS mà quan trọng không kém là HS phải học được cách đánh giá của GV, phải biết đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh giá kết quả học tập rèn luyện của chính mình. Có như vậy, HS mới tự phản hồi với bản thân xem kết quả học tập, rèn luyện của mình đạt mức nào/đến đâu so với yêu cầu, tốt hay chưa tốt như thế nào. Với cách hiểu đánh giá ấy mới giúp hình thành năng lực của HS, cái mà chúng ta đang rất mong muốn. Đánh giá phải lượng giá chính xác, khách quan kết quả học tập, chỉ ra được HS đạt được ở mức độ nào so với mục tiêu, chuẩn đã đề ra. Sau khi HS kết thúc một giai đoạn học thì tổ chức đánh giá, để GV biết được những kiến thức mình dạy, HS đã làm chủ được kiến thức, kĩ năng ở phần nào và phần nào còn hổng... 4
- Thực tế là giáo viên chắc hẳn ai cũng luôn trăn trở, tìm tòi để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, vì đặc trưng của đổi mới là lấy học sinh làm trung tâm. Nhưng do trình độ của học sinh trong lớp, trong trường không đồng đều nên việc đổi mới chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn. Nhiều năm qua, việc dạy và học môn văn trong trương phổ thông không đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả cần thiết của môn học này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả chủ quan và khách quan, xong nếu nhìn nhận về phía người thầy thì có một nguyên nhân quan trọng là hình thức kiểm tra chưa thật sự đánh giá hết năng lực của học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học . Lâu nay việc Kiểm tra đánh giá đối với học sinh THCS còn nhiều bất cập. Hầu hết các trường THCS vẫn chủ yếu dựa vào kết quả của các bài kiểm tra 1 tiết, học kì, thi tuyển sinh vào 10 vẫn phụ thuộc nhiều vào cách đánh giá chủ quan và cảm tính của giáo viên Nội dung kiểm tra vẫn thiên về học thuộc lòng văn bản, ghi nhớ máy móc một nội dung nào đó của văn bản, kiểm tra trí nhớ là chính. Việc kiểm tra đánh giá đó theo hướng cung cấp nội dung nên kết quả là học sinh tập trung học 5
- thuộc lòng hoặc sưu tầm chép những bài văn mẫu. Tuy nhiên không vì vậy mà giáo viên lại nản lòng, trở lại những phương pháp kiểm tra đánh giá lỗi thời. Tiếp tục tìm tòi, đổi mới trong kiểm tra đánh giá để khích lệ và rèn luyện cho học sinh năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học là nhiệm vụ hàng đầu của giáo viên dạy môn văn. Để khắc phục tình trạng trên, tránh sự khuôn mẫu và để phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ của học sinh thì việc làm cấp bách hiện nay là phải đổi mới khâu ra đề, kiểm tra đánh giá năng lực học của học sinh. Đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực cần xác định được khả năng vận dụng tổng hợp những gì đã học của học sinh vào việc giải quyết những tình huống mới. Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy móc, nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy mà coi trọng ý kiến và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy nghĩ sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và mức độ phù hợp với 6
- năng lực của học sinh, phù hợp với nội dung, chương trình giáo dục THCS. Trong quá trình trực tiếp giảng dạy chúng tôi rút ra được một kinh nghiệm nhỏ để nâng cao chất lượng dạy học, đó là luôn đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học cho học sinh . B. Khảo sát thực tế: Chúng tôi đã tìm hiểu thực trạng của đơn vị mình công tác về vấn đề kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn Ngữ văn THCS. Kết quả như sau: *) Về học sinh - 100% học sinh cảm thấy áp lực nặng nề với các dạng đề kiểm tra đánh giá. - Khi giáo viên kiểm tra bài cũ rất nhiều em không trả lời câu hỏi được, không nắm được bài học, hoặc nếu có trả lời được thì cũng trả lời sáo rỗng, thiếu cảm nhận cá nhân. - Nhiều em trả lời rất sợ khi mỗi lần có tiết kiểm tra. *) Về phía giáo viên: - 100% giáo viên quan tâm và đánh giá cao vai trò của vấn đề kiểm tra, đánh giá, xem đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng học tập của học sinh. 7
- - C. “Kiểm tra đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học của học sinh THCS” I. Một số vấn đề chung về kiểm tra, đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học. 1. Các yêu cầu cơ bản của Đọc hiểu văn bản: Đọc hiểu văn bản chỉ hoạt động tiếp nhận văn bản của bạn đọc là học sinh, trong môi trường lớp học, có hướng dẫn và có đánh giá. Có thể mô tả yêu cầu cơ bản của đọc hiểu văn bản theo các cấp độ như sau: Cấp độ Mô tả vắn tắt · Kể lại câu chuyện, nêu tên nhân 1- Nhận vật, tóm tắt cốt truyện; biết · Thuộc lòng bài/ đoạn thơ, nhớ chính xác từ ngữ, · Không nhầm lẫn tên tác giả, tên tác phẩm, dân tộc, quốc gia, thời đại,... (gắn với tác phẩm đó) · Xác định đặc điểm thể loại, hình thức bố cục, tình huống truyện, mô tả hoạt động, tính cách nhân vật; xác định tư tưởng, phong 2- Thông cách nhà văn (qua tác phẩm/ đoạn hiểu trích), giá trị (hay đặc điểm) nội dung, nghệ thuật tác phẩm 8
- · Xác định cảm xúc chủ đạo/ ý chính của đoạn, nội dung chính của bài thơ hoặc các bài kí; xác định đặc điểm nghệ thuật, đặc trưng loại thể, đặc điểm phong cách nhà văn, · Xác định hoàn cảnh, tính cách nhân vật và mâu thuẫn, xung đột trong kịch; Phát hiện ý nghĩa của xung đột. · Vận dụng kiến thức, kĩ năng để 3- Thấp giải quyết các vấn đề bình thường Vận trong phạm vi học tập, nhà trường dụng và cuộc sống cá nhân..., với yêu cầu sáng tạo bình thường. · Vận dụng kiến thức, kĩ năng để Cao giải quyết các vấn đề tương đói khó trong phạm vi cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội với yêu cầu sáng tạo cao, có chủ kiến cá nhân 2. Các dạng bài tập kiểm tra, đánh giá với việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận tác phẩm văn học. a. Kiến thức kiểm tra về thể loại – kiểu văn bản 9
- Dạy học văn theo đặc trưng thi pháp - thể loại là một định hướng dạy học đúng đắn có tính nguyên tắc: nguyên tắc tiếp nhận nghệ thuật. Theo đó, HS sẽ được hướng dẫn nhũng cách thức để giải mã, khám phasTPVH. Đặc trưng thi pháp này do khung thể loại quy định. Giáo viên dạy học theo đặc trưng thể loại, triển khai các bài tập nhận thức và bài tập thực hành theo đặc trưng thể loại, và vì vậy, việc ra đề kiểm tra kiến thức về thể loại là khâu không thể thiếu trong quá trình hướng tới việc rèn luyện năng lực tự tiếp nhận TPVH của HS THCS. * Đề bài nhận dạng thể loại – Kiểu văn bản. Sử dụng loại đề bài này để kiểm tra kiến thức đơn giản nhất về thể loại. Ví dụ: - Truyện “Con Rồng cháu Tiên” thuộc thể loại nào? - Hãy sắp xếp các truyện sau vào các ô thể loại hợp lý: Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Truyền thuyết Hồ Gươm, Thạch Sanh, Sọ dừa, Em bé thông minh, Ếch ngồi đáy giếng. Với đề kiểm tra đánh giá này, GV nên sử dụng vào hình thức kiểm tra miệng và hình thức kiểm tra 15 phút * Đề bài kiểm tra đặc điểm thể loại 10
- Loại đề bài này so với loại đề bài nhận dạng có khó hơn. Tuy nhiên mức độ khó cũng chỉ mới dừng lại ở việc đòi hỏi HS khả năng “ Nhớ lại những gì mà SGK hoặc GV đã cung cấp, ít nhất là đã có sẵn trong phần chú thích của sách giáo khoa. Từ việc buộc học sinh phải “nhớ” lại các đặc điểm thể loại văn bản, GV định hướng cho học sinh biết liên tưởng, so sánh với các thể laoij khác (Trong chương trình học). Ví dụ: - Hãy chỉ ra đặc điểm thể loại của truyện “Ếch ngồi đáy giếng” - Tại sao truyện “ Thạch Sanh”lại được xếp vào loại truyện cổ tích? - Tại sao truyện “ Sự tích hồ Gươm” lại được xếp vào truyện truyền thuyết? Với dạng đề này, GV có thể đưa vào kiểm tra 1 tiết. * Đề bài yêu cầu phân tích, tìm hiểu tác dụng của thể loại trong việc đọc – hiểu TPVH Ví dụ: - Truyện “Thánh Gióng” có liên quan đến sự thật lịch sử nào? - Hãy hình dung tưởng tượng và so sánh sự khác biệt trong dạy học đọc – hiểu “Dế Mèn 11
- phiêu lưu ký” nếu như tác giả Tô Hoài xây dựng truyện bằng thể loại thơ trữ tình. - Nếu bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” cảu Minh Huệ được chuyển thể thành tác phẩm văn xuôi thì cách đọc – hiểu có gì khác so với cách đọc- hiểu của thể loại thơ trữ tình? Những yếu tố nào của thi pháp thể loại quy định sự khác nhau trong cách đọc – hiểu đó? b. Đề bài yêu cầu phân tích, tìm hiểu vai trò các yếu tố của văn bản, thuộc về văn bản Với dạng đề này, Gv phải chú ý đến các yếu tố cấu tạo nên TPVH. Đó là thủ pháp nghệ thuật, từ ngữ ,chủ đề, là hình ảnh, nhịp điệu, vần, kết cấu, là nội dung tư tưởng Hay nói cách khác, đó chính là nội dung và hình thức của tác phẩm. Ở đây, người ra đề phải định hướng cho học sinh cách thức tìm hiểu từ hình thức nghệ thuật để làm sáng rõ nội dung của tác phẩm. Nội dung kiểm tra này chiếm tỷ lệ lớn trong các dạng đề kiểm tra. Có đề kiểm tra khả năng đọc lướt, đọc thông; có đề kiểm tra về khả năng đọc sâu, cảm nhận ngôn từ; có đề kiểm tra về khả năng đọc hiểu. Ví dụ: - Hãy phân tích truyện ngắn “ Lão Hạc” của nhằ văn Nam Cao 12
- - Xác định các biện pháp tu từ trong bài thơ Lượm và nêu rõ tác dụng của các biện pháp đó trong việc thể hiện nội dung của bài thơ. - Lão hạc vừa đáng thương, vừa đáng kính. Hãy làm rõ ý kiến trên . - Lặng lẽ Sa Pa nhưng không lặng lẽ chút nào. Hãy chứng minh. - Hãy làm rõ tình người ấm áp trong “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam c. Đề bài yêu cầu phân tích, tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản. Đó là các yếu tố thuộc về lý luận văn học, các kiến thức về văn học sử. Các kiến thức này có vai trò rất quan trọng trong việc giúp người tiếp nhận hiểu sâu sắc hơn, căn kẽ hơn, toàn diện hơn nội dung trọng tâm của TPVH. Về dung lượng, kiến thức ngoài tác phẩm chỉ nên chiếm 1/5 nội dung một đề bài kiểm tra. Giữa hai mảng kiến thức này phải có mối liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, làm sáng tỏ cho nhau. Ví dụ : Câu 1: Hiện thực xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Câu 2: Từ hoàn cảnh xã hội ấy, từ những hiểu biết về các đoạn trích trong SGK, hãy bình luận câu thơ sau: “ Đau 13
- đớn thay phận đàn bà- lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” d. Đề bài hướng tới việc phát huy ý tưởng sáng tạo của học sinh Dạng đề này giúp Gv hiểu rõ đối tượng học sinh về khả năng đọc- hiểu TPVH, về khả năng đánh giá nhận xét, thẩm bình một chi tiết nghệ thuật dạng đề này chiếm tỷ lệ không nhiều. Ví dụ: - Nếu em là tác giả dân gian, kết thúc truyện “ Cây bút thần”, em sẽ để cho nhân vật Mã Lương đi đâu? Tại sao - Nếu em là Mã Lương, trong tay em có cây bút thần, em sẽ vẽ gì đầu tiên? Tại sao? - Giã sử có một phiên tòa kết án tội lỗi của Dế mèn trong việc gây ra cái chết cho Dế Choắt. Nếu là luật Sư, em sẽ dùng những lý lẽ gì để kết tội Dế Mèn hoặc bào chữa cho Dế Mèn? Nếu sử dụng dạng đề kiểm tra này trong buổi ngoại khóa văn học, thảo luận nhóm. e. Đề bài yêu cầu phân tích tác phẩm cùng thể loại ngoài chương trình học. Để kiểm tra dạng này có tác dụng trong việc giảm thiểu số học sinh có thói quen chép văn mẫu mòn sáo,có tác động tích cực trong việc rèn luyện cho học sinh năng lực đọc- hiểu 14
- TPVH theo đặc trưng loại thể. Tuy nhiên, khi đưa những kiến thức ngoài chương trình ấy vào đề kiểm tra cần chú ý: Thứ nhất, nội dung KT phải gần gũi với nội dung đã được học trong chương trình. Đó là những đặc điểm về thể loại, đề tài phương thức biểu đạt. Ví dụ như phần ngữ văn 6, tập một, muốn kiểm tra kiến thức về thể loại truyền thuyết và cổ tích có thể chọn văn bản cùng đề tài như truyền thuyết về thời các vua Hùng, hoặc truyện cổ tích về các nhân vật kỳ tài. Như vậy học sinh dễ liên tưởng giữa kiến thức văn học đã học và những kiến thức chưa được học. Thứ hai,văn bản văn học ngoài chương trình muốn đưa vào làm nội dung kiểm tra phải được giáo viên hướng dẫn học sinh tự đọc- hiểu trước đó. Thứ ba, không nên lấy cả văn bản văn học chưa được học làm nội dung kiểm tra định kỳ, chỉ nên chọn và đưa vào một tỷ lệ vừa phải xen kẽ với nội dung kiến thức đã được học trong chương trình . Nên tăng cường độ nội dung này vào bài kiểm tra thực hành. Như vậy, với nội dung kiểm tra phong phú, đa dạng, toàn diện (Đặc trưng thể loại, thi pháp, kiến thức lý luận văn học, kiến thức văn học trong và ngoài chương trình, kiến thức, kỹ năng 15
- chưa được học trong chương trình, việc tổ chức kiểm tra thực sự đã tạo thêm một cơ hội cho học sinh trong rèn luyện năng lực tiếp nhận, khám phá tác phẩm văn học một cách sáng tạo. 4. Linh hoạt, sáng tạo sử dụng các hình thức kiểm tra, đánh giá: Có hai hình thức kiểm tra đánh giá được áp dụng trong các nhà trường phổ thông hiện nay đó là kiểm tra đánh giá định kì và kiểm tra đánh giá thường xuyên và kiểm tra tổng kết. Kiểm tra thường xuyên còn được gọi là kiểm tra hàng ngày vì nó được diễn ra hàng ngày. Kiểm tra thường xuyên được người giáo viên tiến hành thường xuyê. Mục đích của kiểm tra thường xuyên là kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học của thầy giáo và học sinh, thúc đẩy học sinh cố gắng tích cực làm việc một cách liên tục, có hệ thống. Tạo điều kiện vững chắc để quá trình dạy học chuyển dần sang những bước mới. Kiểm tra hàng ngày được tiến hành: quan sát hoạt động của lớp, của mỗi học sinh có tính hệ thống, qua quá trình học bài mới, qua việc ôn tập, củng cố bài cũ, qua việc vận dụng tri thức vào thực tiễn. Kiểm tra định kỳ thường được tiến hành sau khi học xong một số chương, học xong một 16
- phần chương trình, học xong một học kỳ. Do kiểm tra sau một số bài, chương, học kỳ của một môn học nên khối lượng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nằm trong phạm vi kiểm tra là tương đối lớn. Tác dụng của kiểm tra định kỳ là giúp thầy trò nhìn nhận laị kết quả hoạt động sau một thời gian nhất định, đánh giá được việc nắm tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh sau một thời hạn nhất định, giúp cho học sinh củng cố, mở rộng tri thức đã học, tạo cơ sở để học sinh tiếp tục học sang những phần mới, chương mới. Kiểm tra tổng kết được thực hiện vào cuối giáo trình, cuối môn học, cuối năm. Kiểm tra tổng kết nhằm đánh giá kết quả chung, củng cố, mở rộng toàn bộ tri thức đã học từ đầu năm, đầu môn học, đầu giáo trình, tạo điều kiện để học sinh chuyển sang học môn học mới, năm học mới. Khi tiến hành kiểm tra đánh giá giáo viên cần lưu ý: + Giáo viên không nên chỉ căn cứ vào kết quả kiểm tra định kỳ, kiểm tra tổng kết để đánh giá học sinh, phải kết hợp với việc kiểm tra thường xuyên, phải theo dõi hàng ngày mới giúp cho người giáo viên đánh giá đúng, chính xác thực chất trình độ của học sinh. 17
- + Khi tiến hành kiểm tra cần chú ý tránh có lời nói nặng nề, phạt học sinh. Nên khuyến khích, động viên những tiến bộ của học sinh dù cho đó là những tiến bộ nhỏ. Khi phát hiện được nguyên nhân những sai sót, lệch lạc nên có biện pháp giúp đỡ kịp thời. + Tạo điều kiện cho tất cả học sinh trả lời đầy đủ câu hỏi đề ra + Giáo viên nghiên cứu kỹ những kiến thức cơ bản của bài, nắm chắc chương trình, chuẩn bị kiến thức tối thiểu do quy định. + Dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi vừa phải, sát trình độ học sinh, học sinh có thể trả lời ngắn gọn trong vài phút. + Sau khi nêu câu hỏi cho cả lớp, cần có thời gian ngắn để học sinh chuẩn bị, sau đó mới chỉ định học sinh trả lời câu hỏi. + Thái độ và cách ứng xử của giáo viên đối với học sinh có ảnh hưởng trong kiểm tra. + Sự hiểu biết của giáo viên về tính cách của học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm là những yếu tố giúp cho người thầy giáo thấy rõ thực chất trình độ kiến thức, kĩ năng của học sinh được kiểm tra. + Cần kiên trì nghe học sinh trình bày. + Khi cần thiết, phải biết gợi ý, không làm cho các em sợ hãi lúng túng. 18
- + Yêu cầu học sinh trả lời sao cho cả lớp nghe được và yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn và bổ sung khi cần thiết. + Phải có nhận xét ưu khuyết điểm trong câu trả lời của học sinh về hình thức trình bày, nội dung, tinh thần thái độ . + Phải công bố điểm công khai. + Phải ghi điểm vào sổ điểm của lớp và sổ điểm cá nhân của mình. + Ra đề bài phải rõ ràng, chính xác, hiểu thống nhất ở tất cả học sinh, sát trình độ của các em, phù hợp thời gian làm bài, phát huy trí thông minh của các em. + Giáo dục cho các em tinh thần tự giác, nghiêm túc trong khi làm bài, tránh tình trạng nhìn bài nhau, nhắc bạn, sử dụng tài liệu trong khi làm bài. + Tạo điều kiện cho học sinh làm bài cẩn thận, đầy đủ, không làm cho các em mất tập trung tư tưởng, phân tán chú ý. + Thu bài đúng giờ + Chấm bài cẩn thận + Có nhận xét chính xác, cụ thể + Trả bài đúng hạn + Có nhận xét chung, nhận xét riêng về nội dung, hình thức trình bày, tinh thần thái độ trong khi làm bài 19
- + Khuyến khích học sinh tiến bộ, nhắc nhở học sinh sa sút + Câu hỏi trong bài kiểm tra viết thường có hai loại chính sau: Câu hỏi với mục đích đòi hỏi học sinh phải tái hiện các kiến thức sự kiện, đòi hỏi phải ghi nhớ và trình bày một cách chính xác, hệ thống, chọn lọc .Câu hỏi yêu cầu năng lực nhận thức đòi hỏi học sinh phải thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa, vận dụng tri thức vào tình huống cụ thể. Trong quá trình kiểm tra, cần sử dụng phối hợp cả hai loại câu hỏi trên. + Theo dõi trình tự, độ chính xác, trình độ thành thạo của các thao tác + Kết hợp kiểm tra lý thuyết - cơ sở lý luận của các thao tác thực hành. Điều quan trọng nhất là giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo sao cho hoạt động kiểm tra đánh giá năng lực tự tiếp nhận tác phẩm của học sinh trở nên nhẹ nhàng mà hiệu quả, không biến kiểm tra đánh giá trở thành áp lực, gánh nặng, nỗi khiếp sợ của học sinh. Muốn vậy giáo viên phải không ngừng tìm tòi, đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá, để kiểm tra đánh giá vừa là cách giúp giáo viên nắm được năng lực của từng học sinh, vừa là động lực thúc đẩy học sinh không ngừng tiến bộ, vừa là yêu cầu để giáo 20