Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 28 + 29. Tiết 107 đến 112 - Lê Hoàng Khởi

docx 16 trang Đăng Thành 21/08/2025 340
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 28 + 29. Tiết 107 đến 112 - Lê Hoàng Khởi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxgiao_an_ngu_van_lop_10_tuan_28_29_tiet_107_den_112_le_hoang.docx

Nội dung text: Giáo án Ngữ văn Lớp 10 - Tuần 28 + 29. Tiết 107 đến 112 - Lê Hoàng Khởi

  1. NỘI DUNG HỌC TRỰC TUYẾN MÔN NGỮ VĂN 10 TUẦN 28 - 29 NGƯỜI SOẠN: LÊ HOÀNG KHỞI AAAAAAAA Tiết 107 (Hướng dẫn HS tự học) TRUYỆN KIỀU Nguyễn Du PHẦN MỘT: TÁC GIẢ I/ CUỘC ĐỜI 1. Thời đại xã hội - Sự thối nát của CĐ phong kiến (vua Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà). - Các cuộc khởi nghĩa nông dân khởi nghĩa nổ ra, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. - Đại phá quân Thanh vang dội. - Vận mệnh rạng rỡ ngắn ngủi của triều đại Quang Trung và công cuộc trùng hưng của nhà Nguyễn. => Đã ảnh hưởng đến cuộc đời cũng như trong sáng tác của ông 2. Quê hương – gia đình - Quê hương: + Quê cha: Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, vùng sơn thuỷ hữu tình. + Quê mẹ: xứ Kinh Bắc hào hoa, cái nôi của dân ca quan họ. + Sinh ra và lớn lên ở Thăng Long ngàn năm văn hiến. => Tiếp cận tinh hoa truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê. - Gia đình + Cha: Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), tài hoa, từng giữ chức tể tướng. + Mẹ: Trần Thị Tần, người con gái xứ Kinh Bắc, giỏi hát xướng. + Dòng họ Tiên Điền có hai truyền thống lớn: Truyền thống làm quan ; Truyền thống văn học. => Tạo điều kiện cho năng khiếu văn học nảy nở và phát triển. 3. Những thăng trầm trong cuộc đời - Thời niên thiếu: + Sống trong gia đình quý tộc quyền quý xa hoa. => Có điều kiện thuận lợi để dùi mài kinh sử, tích luỹ vốn văn hoá, văn học. + Đến sống với người anh => Được tận mắt chứng kiến sự xa hoa của giai cấp phong kiến và thân phận con người, Thời thanh niên: Nguyễn Du đã trải qua cuộc sống nghèo khó bần hàn, loạn lạc (mười năm gió bụi) Trang 1
  2. => Đem lại vốn sống thực tế phong phú về xã hội và thân phận con người. => Học hỏi và nắm vững ngôn ngữ nghệ thuật dân gian. - Làm quan nhà Nguyễn + Con đường làm quan khá thuận lợi. + Chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1820. => Giúp Nguyễn Du thêm hiểu biết, nâng cao tầm tư tưởng về xã hội và thân phận con người trong sáng tác của ông. đặc biệt là người ca nữ. II/ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC 1. Các sáng tác chính a. Sáng tác bằng chữ Hán: 249 bài - Thanh Hiên thi tập - Nam trung tạp ngâm - Bắc hành tạp lục b. Sáng tác bằng chữ Nôm - Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh): một kiệt tác độc nhất vô nhị của VHTĐVN. - Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) 2. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du a. Đặc điểm về nội dung - Sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh, người phụ nữ. - Trong thơ ông, những triết lí về cuộc đời, về thân phận của con người thường mang tính khái quát cao và thấm đẫm cảm xúc. - Lần đầu tiên trong VHTĐ, Nguyễn Du nêu lên một cách tập trung vấn đề thân phận những người phụ nữ có sắc đẹp và tài năng văn chương nghệ thuật. Xã hội cần phải trân trọng những giá trị tinh thần và tôn trọng chủ thể đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần ấy. => Thơ Nguyễn Du đề cao xúc cảm, đề cao tình => Nhà thơ nhân đạo b. Đặc điểm nghệ thuật - Thể loại, thể thơ: + Nắm vững và sử dụng thành công nhiều thể thơ của Trung Quốc như ngũ ngôn, thất ngôn, ca, hành, + Đưa thể thơ lục bát lên đến đỉnh cao; có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và nội dung trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ. - Ngôn ngữ + Việt hoá nhiều yếu tố ngôn ngữ ngoại nhập + Vận dụng sáng tạo và thành công lời ăn tiếng nói dân gian. Trang 2
  3. III/ TỔNG KẾT Nguyễn du là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của văn học việt nam trung đại. Ông có đóng góp lớn đồi với văn học dân tộc về nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật, xứng đáng gọi là thiên tài văn học. ======================================================== Tiết 108-109 TRUYỆN KIỀU Nguyễn Du PHẦN HAI: CÁC ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN I. TÌM HIỂU CHUNG: 1. Xuất xứ: Trích từ câu thơ 723 đến 756 trong tác phẩm. Đoạn trích có ý nghĩa khép lại cuộc sống êm đềm và mở đầu cho quảng đời 15 năm lưu lạc của Kiều. 2. Bố cục: - 12 câu đầu: Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thuý Vân. - 14 câu tiếp: Kiều trao kỉ vật và dặn dò thêm em. - 8 câu cuối: Kiều đau đớn thảm thiết, đến ngất đi. II- ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thuý Vân. - ''Cậy'': nhờ vả, trông mong tin tưởng, gửi gắm niềm hi vọng thiết tha; - ''Chịu lời'': cầu em hãy lắng nghe mình, chấp nhận, chịu thiệt thòi; - ''Lạy'': trang nghiêm, hệ trọng - “Thưa” : kính cẩn, trang trọng => Sự việc bất ngờ: Kiều coi Thuý Vân như ân nhân số một của mình, đưa Thuý Vân vào tình thế không thể từ chối - 6 câu tiếp theo: Kiều nhắc lại kĩ niệm và chính thức nhờ vã Thúy Vân. Lí lẽ của Kiều là tình máu mủ, ruột thịt. - Nghệ thuật: + Ngôn ngữ Nguyễn Du có sự kết hợp giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị, nôm na. + Điển tích ''keo loan'',''tơ duyên'' + thành ngữ ''tình máu mủ'',''lời non nước'', ''thịt nát xương mòn'', “ngậm cười chín suối ”=> Tâm trạng đau đớn của Kiều. 2. Kiều trao kỉ vật và dặn dò. - “Chiếc vành, bức tờ mây”: Kĩ vật của Kim – Kiều. Kiều không trao hẳn mà là giữ - “Của chung”: Của chung 3 người Trang 3
  4. - “Của tin” là vật làm tin giữa Kim và Kiều => Kiều rất chung thủy, đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. - Kiều tiên đoán cảnh tượng oan nghiệt đau đớn, xót xa: ''người mệnh bạc'' người có số phận bạc bẽo không may mắn, không thoát ra được như một định mệnh - chết oan, chết hận: “Mai sau, hiu hiu gió, hay chi về, Rảy xin chén nước , người thác oan”,... => Kiều trao kỉ vật cho em mà lòng Kiều thổn thức, não nề, nuối tiếc, đau xót. 3. Lời độc thoại nội tâm của Kiều: - Bây giờ: trâm gãy bình tan; phận bạc như vôi; hoa trôi, nước chảy lỡ làng, - Như từ cõi chết Kiều quay về thực tại tất cả đã dở dang, đổ vỡ, - Kiều nhận lõi lầm, cho rằng mình là người phụ bạc. Đây là phẩm chất cao quý của Kiều. - Nhịp thơ hai câu cuối: 3/3 và 2/2/2/2 như nhát cắt, tiếng nấc nghẹn ngào, đau đớn chia lìa. III/ TỔNG KẾT: ( Ghi nhớ ) - Bi kịch tình yêu, thân phận và nhân cách cao cả của Kiều. - Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du. Tham khảo: Đoạn đầu: Xót thương lời chị dặn dò Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh Chị yêu lệ chảy đã đành Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim Ô kìa sao chị ngồi im Máu còn biết chảy về tim để hồng Lấy người yêu chị làm chồng Đời em thể thắt một vòng oan khiên Bài thơ kết luận: Em thành vợ của chàng Kim Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao Giấu đầy đêm nỗi khát khao Kiều ơi! Em biết khi nào được yêu (Tâm sự nàng Thúy Vân, Trương Nam Hương) ========================================================= === Trang 4
  5. Tiết 110 (Hướng dẫn tự học) NỖI THƯƠNG MÌNH (Trích “Truyện Kiều”) – Nguyễn Du I. TÌM HIỂU TIỂU DẪN : - Vị trí đoạn trích :Đoạn trích bắt đầu từ câu 1229 đến câu 1248 - Miêu tả cảnh sống ô nhục, trác táng ở lầu xanh và tâm trạng đau đớn tủi nhục của Thuý Kiều, Đồng thời thể hiện thái độ thờ ơ trước cảnh sống, thú vui ở lầu xanh, bộc lộ ý thức về nhân phẩm của Thuý Kiều. 2. Bố cục : Đoạn trích chia làm 2 phần + Đoạn một 10 câu đầu: Tình cảnh trớ trêu ở lầu xanh và tâm trạng đau đớn, tủi nhục của Thuý Kiều. + Đoạn hai còn lại: Thái độ thờ ơ của Thuý Kiều trước cảnh, thú vui ở lầu xanh, thể hiện ý thức về nhân phẩm của nàng. II- ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN: 1. Hoàn cảnh trớ trêu: - Trong 10 câu thơ đầu, có tới 4 câu tác giả miêu tả cảnh sống ở lầu xanh. “Biết bao bướm lả ong lơi Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm Dập dìu lá gió cành chim” Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” - “Biết bao” → diễn tả sự việc xảy ra thường xuyên, rất nhiều không thể tính được. Sau từ “biết bao” là cuộc sống xô bồ, trác táng “cuộc say đầy tháng”, “trận cười suốt đêm”. “Trận cười” chứ không phải tiếng cười. Đó là cái cười khả ố, tiếng cười của những kẻ thoả mãn trong sắc dục, dâm dật đến điên loạn. - Cái tài của Nguyễn Du là sử dụng các thành ngữ và tách thành ngữ để mang sắc điệu riêng: “Ong bướm lả lơi” thành “Bướm lả, ong lơi” gây ấn tượng về sự giao tình ở chốn lầu xanh. - Hình ảnh “lá gió cành chim” giúp người đọc có sự liên tưởng: Lá đón gió, cành đón chim như thân phận của người con gái làm những việc đưa và đón, sớm và tối. Nhục nhã bao nhiêu khi thể xác bị dày vò. Nhịp thơ diễn tả sự buông thả thân xác người con gái, mặc cho khách làng chơi tha hồ đùa cợt. Chỉ bốn câu thơ mà cuộc sống ở lầu xanh hiện ra mồn một. Bút pháp ước lệ “lá gió cành chim”, “Bướm lả ong lơi” thể hiện thân phận của nàng Kiều. Một mặt phê phán hiện thực, sự cảm thông với nhân vật của Nguyễn Du. 2.Nỗi thương mình của Thuý Kiều “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Trang 5
  6. ... ong chường bấy thân” Đây là 6 câu thơ diễn tả nỗi đau đớn đến tê đi tái lại: “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa” Chỉ khi “tỉnh rượu”, “tàn canh” Kiều mới được sống với chính mình. Đấy là lúc nàng “giật mình” xót xa vì thân xác bị dày vò, thảm hại. - Ba tiếng “mình” trong câu bát cũng để chỉ một Thuý Kiều, diễn đạt nỗi đau mất mát chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay. Nỗi đau chỉ mình biết thôi, xót lắm, đau lắm. Nó không thể san sẻ cùng ai. Đây cũng là biệt tài của Nguyễn Du trong cách sử dụng từ ngữ. “Nỗi thương mình” có ý nghĩa rất mới mẻ với văn học trung đại. Con người không chỉ biết hi sinh nhẫn nhục, cam chịu mà đã có ý thức về phẩm giá nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của mình. Tư tưởng này như luồng gió mới thổi trong thơ Trung đại để thắp lên ngọn lửa lòng trong thơ Xuân Hương, Cao Bá Quát... Thương mình còn là cơ sở để thương người. - Từ nỗi đau của thân phận, lời thơ bật lên những câu hỏi: “Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường, Mặt sao dày gió dạn sương. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. - Những từ ngữ sóng đôi: khi/giờ, mặt/thân đặt trong những câu hỏi: khi sao? giờ sao? Mặt sao? Thân sao? Cả quá khứ và hiện tại, cả đời sống tinh thần và thân xác, tất cả đem đến cho người đọc hai đoạn đời và muôn nỗi tái tê. - Thuý Kiều ý thức được về thân phận của mình qua liên tưởng “tan tác như hoa giữa đường”. Đời nàng, thân phận nàng lúc này như bông hoa rụng vứt giữa đường bị bao bước chân vô tình xéo, đạp không thương tiếc. - Nguyễn Du đã sử dụng những thành ngữ và tách thành ngữ thành những câu riêng: + “Gió sương dày dạn” → dày gió, dạn sương diễn tả sự trơ lì, không còn biết gì là xấu hổ nữa. + “Ong bướm chán chường” → “Bướm chán ong chường” diễn tả sự ê chề mỏi mệt đến chán chường của thân xác và tinh thần của Thuý Kiều. Đời nàng lại đến như thế ư? Thuý Kiều đã ý thức được tất cả càng thấy thương mình. ở đây có nỗi đau của thân phận, nỗi đau thay đổi giá trị con người. Kiều càng thấy thương thân tiếc thân. Đây thực chất là những tiếng kêu vút lên từ ngục tối nhà chứa. Nó đòi quyền sống quyền hạnh phúc cho con người. Vì thế đoạn trích góp phần làm nên giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều: Đó là tác dụng của các dạng thức đối xứng Trang 6
  7. khác nhau. 3. Nỗi đau cô đơn, lẻ loi - Cách chiêu hàng của mụ Tú Bà thể hiện rất rõ: “Lầu xanh mới rủ chướng đào Cây treo giá ngọc càng cao phẩm người” Ở đó có nhiều phong cảnh đẹp “Đòi phen gió tựa hoa kề Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu” Câu thơ miêu tả vẻ đẹp đặc trưng của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân có hoa, mùa hạ có gió mát, mùa thu có trăng trong trẻo, mùa đông có tuyết, Đó là vẻ đẹp của phong hoa tuyết nguyệt. Đến các thú vui. “Đòi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa” Đó là thú cầm, kì, thi, hoạ. Thuý Kiều biết tất cả đấy. Nhưng thái độ của nàng như thế nào? - Thúy Kiều thờ ơ với tất cả. Cách kể và miêu tả của Nguyễn Du rất rõ ràng mạch lạc. Người đọc nhận ra thái độ ấy. “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Cái buồn của con người đã lây sang cả cảnh vật. Buồn như thế nàng vui làm sao được. Nàng phó mặc cho khách làng chơi: “Mặc người mưa Sở mây Tần Những mình nào biết có xuân là gì” Mây mưa là chỉ sự ái ân của trai gái, xuân ám chỉ sự vui thú. Mặc cho khách làng chơi, nàng chẳng vui thú ái ân gì. Nếu có chăng chỉ là vui gượng, vui một cách miễn cưỡng: “Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai” - Vì nàng ý thức được nhân phẩm của mình bị trà đạp, bị vùi dập, thắt buộc trong vòng hoen ố. Thái độ ấy thể hiện khát vọng sống trong trắng, không bao giờ hoà nhập với cuộc sống ở lầu xanh của Thuý Kiều. Đây là điều chúng ta đáng trân trọng Thuý Kiều. Nguyễn Du không hề né tránh thực tế nghiệt ngã. Nhà thơ đề cao phẩm giá của Kiều. Đúng như lời của Kim Trọng “Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. III/ TỔNG KẾT Trang 7
  8. - Chủ đề của đoạn trích: Diễn tả nỗi đau tê tái của con người, lòng nhân đạo của Nguyễn Du: thái độ đồng cảm trân trọng con người - Đoạn trích khai thác triệt để sức mạnh của những thủ pháp : ước lệ, tượng trưng, thủu pháp đối ngẫu... diễn tả sâu sắc tâm trạng của nhân vật trữ tình Tham khảo Khó khăn lớn nhất đối với Nguyễn Du là đã bắt lòng thuỷ chung của Kiều phải trải qua một thử thách bi đát : Kiều phải làm đĩ. Nói gì giữ gìn danh tiết với Kim Trọng, ngay cái nhân cách tối thiểu của người đàn bà trong xã hội cũ Kiều làm thế nào giữ cho khỏi bị mai một được? Giản đơn nhất là để cho Kiều chết. Nhưng chết là hết chuyện. Nguyễn Du lại để cho Kiều sống lại. Nhưng sống lại, có nghĩa là chấp nhận lấy số phận nhục nhã của mình. Trong các truyện thơ đương thời, dễ có Kiều là làm việc đó. Nguyễn Du không nhằm nặn ra một Thuý Kiều để làm rạng danh cho một nguyên lí đạo đức trừu tượng nào đó. Kiều vốn là con người bình thường. Nhưng chính con người bình thường này đã có lúc hành động như một liệt nữ, đã nêu tấm gương cao cả và sự hi sinh không bờ bến. Không phải cái tà dâm đã dắt Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, mà chính là cái đạo lí làm người, chính tấm lòng hiếu nghĩa đã biến Kiều thành miếng mồi ngon của bọn bán thịt buôn người. Khó khăn đối với Nguyễn Du là để Kiều phải "Sống làm vợ khắp người ta" mà vẫn giữ được nhân phẩm của mình. Kiều rất có ý thức về sự sa đọa mà mình đã rơi vào : Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân... Đối với lễ giáo phong kiến, giản đơn nhất là buộc tội Kiều, cho những kẻ làm đĩ như Kiều là mất nết, là tà dâm, là vô loại. Nhưng không có lời lẽ nào để biện hộ cho Kiều hùng hồn hơn là những nỗi đau đớn, dằn vặt của Kiều : Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa. Với nỗi xót xa dường ấy, với ý thức như thế về thân phận của mình, Kiều cũng đủ để cho không ai có quyền gạt mình ra khỏi vòng nhân loại. Kiều không thôi mơ ước trở lại cuộc sống trong sạch, được trở lại với quê hương, với gia đình, với người yêu. Những lần "nhớ nhà" của Kiều đều có sức vang dội sâu xa và người đọc không ai có thể khinh bỉ được Kiều. ======================================================= Trang 8
  9. Tiết 111 PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT I. Ngôn ngữ nghệ thuật 1- Khái niệm - Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, ngôn ngữ văn học. Đó là ngôn ngữ gợi cảm được dùng trong văn bản nghệ thuật. - Ngôn ngữ nghệ thuật còn được sử dụng trong lời nói hàng ngày và cả trong văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác. Ví dụ văn bản chính luận (thuyết phục, lay động lòng người, có thể sử dụng ngôn ngữ mang tính hình tượng và biểu cảm). Ví dụ: “Đất nước anh hùng, tiếng hát át tiếng bom” “Chúng lập ra nhà tù ... bể máu” 2- Phân loại - Ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật được chia làm 3 loại. + Ngôn ngữ trong tác phẩm văn xuôi + Ngôn ngữ thơ ca, hò, vè + Ngôn ngữ sân khấu chèo, cải lương, tuồng. - Ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện qua các phương tiện diễn đạt + Cái hay của âm điệu + Vẻ đẹp chân thực của hình ảnh + Xúc cảm chân thành gợi ra nỗi niềm vui, buồn yêu thương, căm giận. 3- Chức năng + Không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ (biểu hiện cái đẹp, khơi gợi nuôi dưỡng cảm xúc.) II. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật * Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật có ba đặc trưng cơ bản là: tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể hoá. 1. Tính hình tượng (đặc trưng cơ bản) - Người viết quan sát sự vật, sự việc, liên tưởng và tưởng tượng sáng tạo để tạo ra hình tượng mới, gây ấn tượng mạnh mẽ. Ví dụ: “Cứ thế hai, ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng” (Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu). - Để có hình tượng, người viết phải tạo ra nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hoá, phóng đại, hoán dụ ... (ví dụ SGK). - Vì sử dụng nhiều biện pháp tu từ nên tính hình tượng tạo ra tính đa nghĩa, nhiều tầng nghĩa khác nhau, ví dụ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương và Trang 9
  10. trong thơ ca hiện đại. “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” - Tính đa nghĩa trong hình tượng quan hệ mật thiết với tính hàm súc, lời ít mà ý nhiều. Ví dụ “Cô phàm viễn ảnh bích không tận” (Bóng buồm đã khuất bầu không) Một cánh buồm cô đơn mà gợi ra được nhiều điều. Người đi cô đơn, người ở càng cô đơn. Một kiếp người lãng đãng trôi nổi giữa cuộc đời. 2. Tính truyền cảm - Tính truyền cảm trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ tự nó bộc lộ tình cảm khiến cho người đọc, người nghe cũng vui, buồn yêu thương hay căm giận cùng người viết. - Ngôn ngữ nghệ thuật có tính truyền cảm là nhờ sự lựa chọn ngôn ngữ để miêu tả bình giá đối với đối tượng khách quan( truyện, kịch) và tâm trạng chủ quan( thơ trữ tình ) - Tính truyền cảm trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật đã tìm được tiếng nói tri âm ở người đọc, người nghe. Đó là sự hoà đồng, giao cảm cuốn hút của nó với mọi người. Điều ấy giải thích vì sao có người gặp cuộc đời buồn trong trang sách mà không cầm được nước mắt. 3. Tính cá thể hoá - Mỗi nhà văn, nhà thơ hoặc người viết nào khác đều có khả năng, sở trường, cách thể hiện, giọng điệu riêng. Đó là tính cá thể hoá trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. - Suy cho cùng cá tính hoàn toàn phụ thuộc vào tính sáng tạo của người viết. Đó là cách xử lí ngôn ngữ (lựa chọn, xếp đặt) của người viết. - Tính cá thể hoá còn được thể hiện ở vẻ riêng của nhân vật, sự việc, hình ảnh, chi tiết trong tác phẩm làm cho nhân vật, sự việc, hình ảnh ấy không lặp lại. II. LUYỆN TẬP: 1. Bài 1 – SGK Đó là các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, tương trưng, phóng đại Ví dụ: “Rừng ơi! Khép suối cho trăng ngủ Có điện Tà Sa đủ sáng rừng” Đây là biện pháp tu từ nhân hoá, biến rừng, trăng như con người. Câu thơ đầu gợi cảm bởi tính hình tượng. 2. Bài tập 2 – SGK Trong ba đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thì tính hình tượng là Trang 10
  11. đặc trưng cơ bản nhất. Vì: - Không tạo ra hình tượng thì không tác động được tình cảm tới người đọc, người nghe. - Không tạo ra hình tượng mang tính độc đáo riêng thì không có tính cá thể hoá. - Sự thu hút, gợi cảm đầu tiên đối với người đọc, người nghe là hình tượng trong thơ, trong văn, trong cách lập luận, trong cả lời nói của nhân dân. Bài tập tham khảo 1. Bài tập 1: Những biện pháp tu từ thường được sử dụng để tạo ra tính hình tượng - So sánh: -“Sống trong cát, chết vùi trong cát, Những trái tim như ngọc sáng ngời” (Tố Hữu) -“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” (Ca dao) - Ẩn dụ: -“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, Đã vo nước đục lại vần than rơm” (Ca dao) -“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ ” (Ca dao) - Hoán dụ: -“Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ” (Ca dao) -“Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (Hoàng Trung Thông) -“Áo nâu liền với áo xanh, Nông thôn cùng với thành thị đứng lên” (Tố Hữu) 2. Bài tập 2: Trong 3 đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thì tính hình tượng được xem lầ tiêu biểu nhất, vì: - Tính htượng là p.tiện tái hiện, tái tạo cuộc sống thông qua chủ thế stạo của nhà văn (là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan). - Tính hình tượcg là mục đích sáng tạo nghệ thuật bởi vì: + Tác phẩm nghệ thuật đưa người đọc vào thế giới của cái đẹp, thông qua những xúc động hướng thiện trước thiên nhiên và cuộc sống; Trang 11
  12. + Người đọc có thể hình thành những phản ứng tâm lí tích cực => thay đổi cách cảm cách nghĩ cũ kĩ, quan niệm nhân sinh và có khát vọng sống tốt hơn, hữu ích hơn. - Tính hình tượng được hiện thực hoá thông qua một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật (từ ngữ, câu, đoạn, âm thanh, nhịp điệu, hình ảnh ) => gây cảm xúc. - Tính hình tượng thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm (vận dụng sáng tạo ngôn ngữ => mang dấu ấn của cá tính sáng tạo nghệ thuật). 3. Bài tập 3: a. Nhật kí trong tù canh cánh một tấm lòng nhớ nước. (canh cánh: thường trực và day dứt, trăn trở, băn khoăn). b. Ta tha thiết tự do dân tộc Không chỉ vì một dải đất riêng Kể đã vãi trên mình ta thuốc độc Giết màu xanh cả Trái Đất thiêng ( Theo: Hoài Thanh) + Vãi: hành động đáng căm giận NX: dùng các từ như trên không chỉ gọi đúng tâm + Giết: hành vi tội ác mù quáng trạng, miêu tả đúng hành vi, mà còn bày tỏ được thái độ, Tình cảm của người viết. ======================================================== Tiết 112 CHÍ KHÍ ANH HÙNG (Trích “ Truyện Kiều”) – Nguyễn Du I-ĐỌC – HIỂU TIỂU DẪN: 1. Vị trí - Từ câu 2213 đến câu 2230 trong “Truyện Kiều”(Đây là đoạn Nguyễn Du sáng tạo ra so với cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện” ) - Đoạn trích thể hiện chí khí anh hùng của Từ Hải qua lí tưởng và lời chia tay với Thuý Kiều. - Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều gặp Từ Hải, hai người tâm đầu ý hợp. Từ đã bỏ tiền chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. “Nửa năm hương lửa đương nồng”, Từ Hải nghe theo tiếng gọi của sự nghiệp, chàng dứt áo ra đi 2. Bố cục : 3 phần - 4 câu đầu: Hoàn cảnh chia tay - 12 câu tiếp : Cuộc đối thoại giữa kiều và Từ Hải - 2 câu kết : Từ Hải dứt áo ra đi Trang 12
  13. II- ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN 1- Bốn câu đầu : - Hoàn cảnh đặc biệt : Nửa năm hương lửa đang nồng Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương - Tính cách : + Chí khí + Hoài bão + Mục đích sống cao cả + Không bằng lòng với cuộc sống bằng phẳng + Khao khát được vẫy vùng + Không dam mê tầm thường => Trượng phu: người anh, người dàn ông có hoài bão chí khí lớn lao => Động lòng bốn phương : cách nói ước lệ chỉ chí khí tung hoành thiên hạ. Đó là lí tưởng người anh hùng thời trung đại không bị ràng buộc bởi vợ con gia đình => Thoắt: hành động nhanh chóng, dứt khoắt, một cách sử sự khác thường Từ Hải không phải là con người đam mê mà là con người sống có lí tưởng, lí tưởng của Từ Hải là được tự do, vẫy vùng giữa trời cao đất rộng không chịu một sự trói buộc nào. Từ Hải vốn là con người. “Chọc trời khuấy nước mặc dầu Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” Mặc dù Từ Hải cũng là con người đa tình khi gặp Kiều: “Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa”. Nhưng trước hết Từ là một tráng sĩ có chí khí mạnh mẽ. Trông vời trời bể mênh mang Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong. - Từ Hải được đặt trong bối cảnh không gian rộng lớn ( bốn phương, trời bể mênh mang )-> nhấn mạnh tính chất phi phàm của người anh hùng. đó là con người xuất chúng mang tầm vóc vũ trụ . Hình ảnh từ hải được miêu tả xuất phát từ cảm hứng vũ trụ, con người vũ trụ mang kích thước kì vĩ 2/ 12 câu tiếp theo a) Một con người có chí khí phi thường + Không đắm mình trong chốn buồng khuê + Sống trong hạnh phúc ngọt ngào, phút chốc Từ Hải đã “động lòng bốn phương” + Tiếng gọi của sự nghiệp thức tỉnh từ bên trong, đối với chàng giờ đây sự nghiệp là trên hết. + Chàng không một chút bịn rịn trong lời tiễn biệt. Đặc biệt chàng còn trách Thuý Kiều: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Phải chăng chàng muốn Trang 13
  14. khuyên người tri kỉ hãy vượt lên tình cảm thông thường để làm vợ một anh hùng. b) Từ Hải còn là một con người rất tự tin + Mới ra đi, Từ đã khẳng định: Đành lòng chờ đó ít lâu Chầy chăng là một năm sau vội gì Chàng tự tin vào mình, không quá một năm sau sẽ thực hiện được cơ đồ to lớn. Đó là khát vọng. Chàng không hề giấu giếm: “Bao giờ .... nghi gia” Trong “Truyện Kiều”. Từ Hải đã làm được điều đó. 3/ Hai câu cuối - Tư thế ra đi mạnh mẽ, dứt khoát - Diễn tả bằng hình ảnh ước lệ tượng trưng: như con chim bằng đã đến giờ tung cánh trở về với trời bể mênh mang “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”  Hình ảnh chim bằng khi đã cất cánh thì như đám mây ngang trời. Tất cả thể hiện cách miêu tả theo khuynh hướng lí tưởng hoá Từ Hải của Nguyễn Du III. TỔNG KẾT: * Từ Hải thể hiện mạnh mẽ ước mơ âm ỉ trong cảnh đời tù túng cảu xã hội cũ. Từ ra đi để thỏa chí vẫy vùng song cũng là để đạp bằng mọi bất công * Khuynh hướng lí tưởng hoá nhân vật - Thể hiện qua từ ngữ. + Hai tiếng trượng phu không để chỉ người đàn ông bình thường mà chỉ những người có chí khí lớn. + Thoắt đã động lòng chỉ quyết định rứt khoát, mạnh mẽ. + Động lòng bốn phương. Cụ Hoài Thanh có lời bình rất hay: “Không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. - Thể hiện qua hình ảnh + “Trời bể mênh mang” thể hiện cái nhìn của chí khí lớn lao. Con người ấy hướng tới, vẫy vùng nơi trời cao đất rộng, không chịu trói mình trong cuộc sống tù túng chật hẹp. + “Dứt áo ra đi” → không chút bịn rịn, chủ động lắm + “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” → con chim bằng khi đã cất cánh thì như đám mây ngang trời. Tất cả thể hiện cách miêu tả theo khuynh hướng lí tưởng hoá Từ Hải của Nguyễn Du Tham khảo Đọc đoạn thơ (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du) thể hiện hình ảnh Từ Hải sau khi Trang 14
  15. giúp Kiều trả ân báo oán : Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân, lạy trước Từ công : "Chút thân bồ liễu mà mong có rày! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi! Khắc xương ghi dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!". Từ rằng : "Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỉ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng : Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân! Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng". Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh, nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan, Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những phường giá áo, túi cơm sá gì! Nghênh ngang một cõi biên thuỳ, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! Trước cờ, ai dám tranh cường? Năm năm hùng cứ một phương hải tần! ------------------------------------------------------------------------------------------------- ------ “HÃY ĐỔ MỒ HÔI NƠI HIỆN TẠI, ĐỂ NGĂN DÒNG NƯỚC MẮT Ở TƯƠNG LAI” CHÚC CÁC EM HỌC TỐT! Trang 15
  16. Trang 16