SKKN Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

pdf 23 trang Minh Phúc 17/04/2025 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_huong_dan_hoc_sinh_cach_lam_bai_van_nghi_luan_ve_mot_do.pdf

Nội dung text: SKKN Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ

  1. PHÕNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI THỤY TRƢỜNG TH & THCS THỤY BÌNH BÁO CÁO BIỆN PHÁP HƢỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ T¸c gi¶: L¹i thÞ hoµi Tr×NH §é CHUY£N M¤N: ®¹I HäC s• ph¹m V¡N Chøc vô: Tæ tr•ëng tæ khoa häc x· héi ĐƠN VỊ : Tr•êng TH&THCS Thôy B×nh Thụy Bình, ngày 12 tháng 02 năm 2020 1
  2. BÁO CÁO BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY MÔN NGỮ VĂN 9 I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên biện pháp: Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. 2. Lĩnh vực áp dụng biện pháp : Môn Ngữ văn 3. Tác giả: Lại Thị Hoài Nữ Ngày, tháng, năm sinh: 04/01/1975 Trình độ chuyên môn : Đại học sư phạm Văn Chức vụ : Tổ trưởng tổ Khoa học Xã hội Đơn vị công tác: Trường TH&THCS Thụy Bình Điện thoại: 0368722375 Email: hoaithuybinh3@thaithuy.edu.vn 4. Đơn vị áp dụng biện pháp: Tên đơn vị : Trường TH&THCS Thụy Bình Địa chỉ: Xã Thụy Bình - huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình 5. Thời gian áp dụng biện pháp lần đầu : Năm học: 2014 - 2015 2
  3. II. BÁO CÁO MÔ TẢ BIỆN PHÁP 1. TÊN BIỆN PHÁP Hƣớng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. 2. LĨNH VỰC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP : - Môn Ngữ Văn lớp 9. - Dạy trong tiết tập làm văn của môn Ngữ Văn. 3. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA BIỆN PHÁP 3.1.TÌNH TRẠNG BIỆN PHÁP Cùng với các môn học khác, môn Ngữ văn cấp THCS cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc hình thành tư duy, trang bị cho học sinh công cụ để tiếp nhận, diễn đạt những kiến thức khoa học tiếp thu được từ nhà trường, xã hội và cuộc sống. Do vậy, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường không chỉ coi trọng dạy học phần tìm hiểu văn bản mà còn chú trọng việc dạy kĩ năng tạo lập văn bản. Bởi văn bản là sản phẩm tổng hợp, là tấm gương phản ánh năng lực của học sinh để phát triển tư duy. Nếu văn hư cấu giúp học sinh kích thích trí tưởng tượng, xây dựng óc quan sát tinh tế với tình cảm chân thực, những khám phá hồn nhiên về đời sống gia đình, xã hội thì văn nghị luận nhằm hình thành và phát triển khả năng lập luận chặt chẽ, trình bày lí lẽ và dẫn chứng một cách sáng sủa, giàu sức thuyết phục. Giúp các em diễn tả những suy nghĩ và nêu ý kiến riêng của mình về một vấn đề nào đó trong cuộc sống hoặc văn học, nghệ thuật. Kiến thức trọng tâm của văn nghị luận cấp THCS chủ yếu nằm trong chương trình Ngữ văn 9. Qua các tiết học, các em hiểu đặc điểm, bản chất, nhận diện các dạng bài nghị luận như nghị luận xã hội(tư tưởng đạo lí, sự việc hiện tượng), nghị luận văn học( tác phẩm truyện - đoạn trích, đoạn thơ - bài thơ), rèn cho các em kĩ năng viết bài. Thực chất nghị luận là một kiểu bài khó, nghị luận văn học lại càng khó, đặc biệt nghị luận về bài thơ, đoạn thơ. Mục đích của bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là qua việc tìm hiểu các tín hiệu nghệ thuật( như hình ảnh, ngôn ngữ, cấu tứ ) nhận xét, đánh giá được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ. Tìm hiểu thơ là một việc không dễ, đánh giá về thơ lại càng phức tạp hơn, thơ là sản phẩm của cảm xúc, trí tưởng tượng mang dấu ấn cá nhân. Quá trình tiếp nhận thơ ca cũng đồng thời là một quá trình tiếp nhận mang tính chất chủ quan sâu sắc. Bài nghị luận vì thế, cần có sự kết hợp giữa việc trình bày hiểu biết về những “dấu ấn cá nhân” của tác giả, đồng thời phải nói lên được những cảm nhận, đánh giá chủ quan của bản thân người viết. Kiến thức được thể hiện trong một bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là kiến thức tổng hợp, kết hợp nhiều lĩnh vực liên quan đến tác phẩm, trong đó có những hiểu biết về đặc trưng thể loại, về tác giả, về hoàn cảnh sáng tác Vấn đề bám sát 3
  4. vào đặc trưng thể loại thơ(thể hiện trong những đặc trưng về từ ngữ, hình ảnh, cách ngắt nhịp, cấu tứ) để nghị luận là rất quan trọng. Bài viết phải đảm bảo tính khoa học, logic. Đặc điểm này cần được biểu hiện rõ trong cả quá trình làm bài. Vậy làm thế nào để học sinh có kĩ năng làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là vấn đề đặt ra đối với mỗi giáo viên giảng dạy Ngữ văn 9 nói chung và cá nhân tôi nói riêng. Vì thế tôi chia ra một số dạng đề để Hƣớng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ - góp phần giúp các em làm tốt kiểu bài nghị luận này. 3.2.NỘI DUNG BIỆN PHÁP a, Mục đích của biện pháp Chúng ta đang tích cực thực hiện nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy. Với môn Ngữ văn việc đổi mới phương pháp dạy học phải chú trọng rèn cho học sinh kĩ năng thực hành. Tạo điều kiện để các em phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, từ đó củng cố niềm tin yêu và hứng thú cúa các em đối với môn học. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ trên nên điểm mới của phương pháp Hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là rèn kĩ năng thực hành. Đó là kĩ năng tạo lập văn bản, viết, suy nghĩ sáng tạo trên cơ sở những đơn vị kiến thức đã học. Từ cơ bản đến nâng cao nhằm phát huy tư duy của mọi đối tượng học sinh: trung bình, khá, giỏi. Kiểu bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ là một kiểu bài khó có rất nhiều dạng đề, mà số tiết học sinh được học trên lớp không nhiều. Làm sao để giúp các em làm tốt kiểu bài này? Trong nội dung báo cáo này tôi tạm chia ra một số dạng đề nhỏ, để quá trình hướng dẫn HS làm bài cụ thể hơn. Hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ sẽ được xây dựng trên hệ thống kiến thức từ cơ bản rồi mới đến nâng cao. Vì thế có thể áp dụng học cho mọi đối tượng học sinh. Mặc dù là phần kiến thức quan trọng nhưng chương trình Ngữ văn 9 chỉ có ba tiết học về nghị luận đoạn thơ, bài thơ. Tiết 124: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Tiết 125: Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Tiết 140: Luyện nói nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Dạy theo chủ đề tích hợp thì ba tiết dạy trên thuộc chủ đề " Nghị luận về một bài thơ hoặc đoạn thơ". Chủ đề gồm 6 tiết nhưng cũng chỉ có 3 tiết học lí thuyết, 3 tiết còn lại là trả bài Tập làm văn số 6 và viết bài Tập làm văn số7. Những tiết học này mới nêu ra cho học sinh hiểu khái niệm thế nào là nghị luận đoạn thơ, bài thơ và nêu ra các bước tìm hiểu đề, tìm ý, bố cục nhưng chỉ mang tính khái quát Thực chất đối tượng nghị luận về đoạn thơ, bài thơ rất đa dạng. Với mỗi kiểu bài, yêu cầu nghị luận có sự khác nhau, học sinh phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể để làm bài, tránh việc tham kiến thức. Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ không có nghĩa chỉ yêu cầu nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ nào đó phạm vi nghị luận có thể rộng hơn: từ hai bài trở lên hoặc có thể hẹp hơn - một khía cạnh nào đó của đoạn thơ, bài thơ. 4
  5. Là giáo viên nhiều năm trực tiếp giảng dạy Ngữ văn 9, tôi nhận thấy một số hạn chế của học sinh khi làm bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ như sau: - Mở bài còn vụng về đơn điệu. Chưa biết trình bày ý và sắp xếp ra sao, phân bố số lượng câu chữ chưa hợp lí.Thân bài chưa biết cách tìm luận điểm vì thế xây dựng và trình bày luận điểm không rõ ràng, ý nhỏ, ý lớn chồng chéo, chưa kết nối thành hệ thống mạch lạc, bổ trợ cho nhau. - Thường xem nhẹ yếu tố nghệ thuật của tác phẩm, thậm chí có những em khi phân tích không bám vào nghệ thuật như ngôn từ, hình ảnh có em chỉ đi diễn xuôi bài thơ. Khi làm bài các em bỏ qua các chi tiết vô cùng quan trọng, đó là nêu cảm xúc của tác giả được bộc lộ qua từng đoạn thơ, bài thơ. Chưa biết liên hệ thực tế hay rút ra bài học cho bản thân sau khi phân tích tác phẩm nên bài viết chưa sâu sắc, tính thuyết phục chưa cao. Từ thực tế đó tôi nhận thấy nhiệm vụ quan trọng của giáo viên là phải định hướng cho học sinh cách làm bài cụ thể trên cơ sở kiến thức các em đã được học qua các nguồn: Sách giáo khoa, sách tham khảo, bài giảng của giáo viên cung cấp trên lớp Hướng dẫn cho các em bám vào đặc trưng, thể loại, hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm, bố cục, giá trị nội dung và nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm để các em có sự cảm thụ đúng đắn và sâu sắc từng tác phẩm để vận dụng khi làm bài. Trên cơ cở đó, tôi rút ra một số nội dung và phương pháp Hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Nếu nắm vững và làm tốt kiểu bài này ở lớp 9 sẽ là nền tảng vững chắc để các em làm tốt kiểu bài này ở cấp THPT. b, Nội dung biện pháp Để Hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, tôi tiến hành các bước như sau: 1. Hướng dẫn tìm hiểu các dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. 2. Bố cục và kĩ năng cần thiết để tạo lập văn bản nghị luận bài thơ, đoạn thơ. 3. Hướng dẫn cách làm bài chung. + Cách viết mở bài. + Cách viết thân bài: Xác định hệ thống luận điểm,trình bày luận điểm, biết khái quát nghệ thuật, liên hệ + Cách viết kết bài. 4.Hướng dẫn thực hành cho từng dạng đề cụ thể. BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH 1. Các dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Trong quá trình hướng dẫn HS làm bài, tôi đã chia ra một số dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ như sau: a- Nghị luận về một bài thơ b- Nghị luận về một đoạn thơ c- Nghị luận về hình tượng nhân vật của một bài thơ, đoạn thơ d- Nghị luận về một khía cạnh của bài thơ, đoạn thơ ( nội dung hoặc nghệ thuật) 5
  6. e- Nghị luận tổng hợp: từ hai bài thơ, đoạn thơ trở lên. 2. Bố cục và dàn ý chung Cho dù ở dạng đề nào, các em phải nắm được bố cục và vai trò từng phần đối với tất cả các dạng: - MB: Giới thiệu đối tượng nghị luận - TB: Phân tích, trình bày những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ qua hệ thống luận điểm để làm sáng tỏ hệ thống nghị luận. - KB: đánh giá chung về đoạn thơ, bài thơ Trên cơ sở dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp giữa 3 phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn, tôi hướng dẫn các em: * Kĩ năng cần thiết để tạo một văn bản nghị luận về đoạn thơ, bài thơ: - Kĩ năng 1: Tìm hiểu đề: +Xác định thể loại và tiểu loại (dạng bài) + Nội dung và đối tượng nghị luận + Xác định tư liệu cần sử dụng khi làm bài (tư liệu bắt buộc và tư liệu mở rộng) - Kĩ năng 2: Tìm ý sơ lược: * Cách 1: + Tìm ý theo cách chia đoạn (bố cục) của bài thơ và cách chia tách câu thơ của đoạn + Bám sát sự chia tách trên lớp qua giờ học đọc - hiểu văn bản. + Tìm ý theo cách này vẫn phải biết lồng nội dung và nghệ thuật trong từng luận điểm, cuối cùng phải có phần chốt lại, tổng hợp và nâng cao. * Cách 2: Bài thơ có dung lượng câu chữ dài, nội dung bao hàm nhiều vấn đề. + Tìm ý theo cách này trên cơ sở chia ra từng nội dung và nghệ thuật. + Sau đó có phần đánh giá ý nghĩa của tác phẩm. * Chú ý: Có bao nhiêu nội dung lớn là có bấy nhiêu luận điểm, thêm nghệ thuật và ý nghĩa. * Khi tìm hiểu nghệ thuật bài thơ bao gồm: thể thơ, âm hưởng giọng điệu, hệ thống hình ảnh thơ, ngôn ngữ, các biện pháp nghệ thuật - Kĩ năng 3: Cách trình bày câu văn, đoạn văn trong bài. Lựa chọn tư liệu của phần văn( đọc - hiểu văn bản), kiến thức phần Tiếng Việt như: các biện pháp tu từ, sử dụng phép liên kết câu, đoạn, cách trình bày đoạn văn ( quy nạp, diễn dịch, móc xích), kiểu câu: cảm thán, nghi vấn, các thành phần câu: tình thái, phụ chú để vận dụng làm bài nghị luận sao cho vừa đúng, vừa chặt chẽ, vừa có sức thuyết phục. 3- Hướng dẫn chung cách viết mở bài, thân bài, kết bài. a – Cách viết mở bài Ông bà ta đã dạy “ Đầu xuôi, đuôi lọt”, việc tạo lập văn bản cũng vậy. Mở bài hay sẽ tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy tôi đưa ra những định hướng giúp các em hình thành kĩ năng, biết vận dụng những điều đã học rất gần gũi với các em để viết mở bài. a.1- Mục đích yêu cầu chung 6
  7. - Về chức năng: Giới thiệu đối tượng nghị luận( Khái quát về tác giả, tác phẩm). - Kiểu loại đoạn văn: Thông thường, mở bài hay có kiểu đoạn móc xích. - Dung lượng: 5->7 dòng, giới thiệu khái quát không lan man. a.2- Yêu cầu cụ thể - Giới thiệu khái quát về tác giả( vị trí trong nền văn học) - Giới thiệu về bài thơ, đoạn thơ, nội dung bao trùm của bài thơ, đoạn thơ. - Bước đầu đánh giá về bài thơ, đoạn thơ( tùy vào tác phẩm cụ thể mà đưa ra những đánh giá phù hợp). a.3- Các cách viết mở bài * Mở bài trực tiếp: Để viết mở bài kiểu này, tôi hướng dẫn học sinh nhớ thông tin cần thiết về tác giả sau đó chắt lọc thông tin cần thiết về tác giả, tác phẩm và xác định đúng vấn đề nghị luận. Tiếp đến các em chỉ sắp xếp khéo léo những dữ liệu thông tin liên kết với nhau sẽ tạo thành một mở bài hoàn chỉnh, đủ ý (những thông tin về tác giả, tác phẩm các em đã học ở phần đọc- hiểu văn bản trong sgk và phần gv bổ sung). Đây là cách viết tương đối dễ, dành cho học sinh trung bình có thể hình dung, vận dụng làm bài. Sau mỗi bài làm, các em sẽ rút kinh nghiệm bổ ích, dần tạo thành những kĩ năng, thói quen biết làm mở bài cho bất kì đề nghị luận văn học nào. * Cụ thể: - Giới thiệu vể tác giả:Tên, trưởng thành trong thời kì nào.Phong cách thơ, đề tài sáng tác. - Tác phẩm ra đời vào thời gian nào, nội dung bao trùm cả tác phẩm. * Mở bài theo lối gián tiếp: Đối với kiểu mở bài này, yêu cầu kĩ năng của học sinh cao hơn, các em phải biết liên hệ, đối chiếu, so sánh tác phẩm cần nghị luận với các tác phẩm khác cùng đề tài, cùng giai đoạn lịch sử. Bên cạnh đó cũng cần có tri thức về văn học (các tác phẩm nằm ngoài SGK). Nếu có sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên, các em có thể làm khá tốt kiểu mở bài này (phát huy tính sáng tạo của nhứng học sinh khá và giỏi). * Cụ thể: - Dẫn dắt từ một câu danh ngôn, câu thơ, câu ca dao có cùng đề tài với đối tượng cần nghị luận. - Giới thiệu đề tài chung, sau đó đi tới đối tượng nghị luận riêng. * Chú ý: Để bộc lộ rõ cảm xúc của người viết về đối tượng nghị luận trong mở bài và tạo sự xúc động, lôi cuốn, câu cuối các em nên dùng kiểu câu như: Qua bài thơ, đoạn thơ, ta cảm nhận thấm thía, cảm nhận sâu sắc về b- Cách viết thân bài b.1. Mục đích yêu cầu chung: - Chức năng: Trình bày, đánh giá nghệ thuật, nội dung của từng luận điểm một cách cụ thể qua từng đoạn thơ, hình ảnh thơ để làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của đối tượng nghị luận - Dung lượng: Chiếm số lượng câu chữ nhiều trong bài, gồm nhiều đoạn văn tạo thành, vì vậy phải có sự khéo léo mềm mại trong cách chuyển ý giữa các đoạn. 7
  8. - Kiểu loại các đoạn văn: Mỗi luận điểm ứng với một đoạn và thường trình bày theo kiểu diễn dịch (với đề bài yêu cầu nêu cảm nhận), quy nạp (với đề bài yêu cầu phân tích, yêu cầu này cũng có thể trình bày đoạn văn theo kiểu diễn dịch) hay theo kiểu tổng phân hợp b.2 Yêu cầu cụ thể: b.2.1- Xác định luận điểm Để tìm hệ thống luận điểm hợp lí, chính xác (thông qua hệ thống luận điểm đó mà người đọc cảm nhận được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ) học sinh dựa vào các kiến thức được tìm hiểu ở phần đọc hiểu văn bản. - Cách 1: Nếu tác phẩm nào tìm hiểu theo bố cục (bài thơ được chia mấy đoạn ) thì mỗi đoạn của văn bản ứng với một luận điểm. Câu đánh giá nội dung khái quát mội đoạn thơ là câu mang luận điểm, thông thường câu mang luận điểm nằm ở ngay đầu đoạn văn. * Chú ý: Mỗi luận điểm khi phân tích xong bao giờ cũng xuống dòng, tách đoạn và sau khi trình bày hệ thống luận điểm phải đánh giá khái quát về giá trị nghệ thuật của đoạn thơ. - Có tác phẩm tìm hiểu theo bố cục, nhưng trong mỗi đoạn thơ không phân tích thứ tự câu thơ trước sau nên học sinh phải biết tập hợp những câu thơ có cùng ý để trình bày (các em đã được hướng dẫn tìm ý trong phần đọc- hiểu văn bản). - Cách 2: Nếu tác phẩm nào tìm hiểu theo hình ảnh thơ thì mỗi hình ảnh là một luận điểm. Đối với tác phẩm tìm hiểu theo hình ảnh học sinh phải biết tập hợp những câu thơ có cùng hình ảnh để phân tích. b.2.2- Cách trình bày từng luận điểm + Đánh giá khái quát nội dung luận điểm + Trích dẫn thơ + Chỉ ra những hình ảnh thơ đặc sắc có tác dụng khắc họa rõ nét nhất cho nội dung luận điểm (trong luận điểm chia ra ý nhỏ gọi là các luận cứ 1, 2, 3 ) + Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng khi diễn tả những hình ảnh thơ ấy, nêu tác dụng. Từ đó đưa ra nhận xét , đánh giá của bản thân về cái hay, cái đẹp của hình ảnh thơ (có thể sử dụng câu cảm thán như: Chao ôi, thật cảm động biết bao, thật tinh tế biết bao ) + Nêu cảm nhận về tâm hồn tác giả + Cuối luận điểm (tương ứng mỗi đoạn nhỏ) có câu chốt, đánh giá về cái hay, cái đẹp của đoạn thơ * Khi chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác, phải có câu chuyển ý bằng kiểu cặp từ quan hệ: không những mà còn, không chỉ mà còn , bài thơ không chỉ hay mà còn thể hiện , nếu ở đoạn thơ thì tiếp theo nhà thơ còn - Dùng quan hệ từ nối: tiếp đến, tiếp theo - Khi chuyển ý cuối cùng (luận điểm cuối) nên sử dụng từ: cuối cùng bài thơ hoặc nhà thơ cho người đọc cảm nhận Bài thơ khép lại bằng hình ảnh 8
  9. b.2.3- Sau khi trình bày các luận điểm của bài, phải nêu khái quát lại toàn bộ nét đặc sắc nghệ thuật - Với tác phẩm thơ, đánh giá về nghệ thuật các em chú ý đến phương diện sau: Thể thơ, âm hưởng, giọng điệu,hệ thống hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, các biện pháp tu từ b.2.4- Nêu ý nghĩa (liên hệ thực tế, bài học rút ra sau khi tìm hiểu đối tƣợng nghị luận): Qua bài thơ, đoạn thơ, hình ảnh thơ em hiểu được vẻ đẹp gì của quê hương đất nước Từ đó, bồi đắp trong em tâm hồn em tình cảm gì c- Cách viết kết bài: c.1. Mục đích yêu cầu: - Chức năng: Khái quát toàn bộ các luận điểm. - Vai trò: Nêu cảm nghĩ của người viết để đề cao đối tượng nghị luận, khẳng định vai trò sức sống, ý nghĩa của đối tượng nghị luận. - Dung lượng: 5 -7 dòng hoặc có khi chỉ cần một câu văn. - Kiểu loại: Thường trình bày theo đoạn văn móc xích. c.2.Một số cách viết kết bài: Cách 1:Lấy mốc thời gian hiện tại, trừ đi thời gian tác phẩm ra đời. Chọn số tròn trục và sử dụng từ “hơn” hoặc “gần” mấy chục năm từ đó khẳng định sức sống bền lâu của tác phẩm trong lòng bạn đọc. Cách 2: Khái quát toàn bộ các luận điểm khẳng định sức sống của đối tượng nghị luận Cách 3: Trực tiếp nêu cảm nghĩ của mình về đối tượng nghị luận và rút ra bài học cho bản thân. Cách 4: Đưa ra câu hát, câu thơ có cùng đề tài với đối tượng nghị luận hoặc có nội dung triết lí cùng với bài nghị luận để khẳng định ý nghĩa sâu sắc của đối tượng nghị luận. Cách 5: Kết bài bằng một câu cảm thán: Cảm ơn nhà thơ bằng tài năng, tấm lòng mang đến(gửi gắm, thức tỉnh ) chúng ta một triết lí sống(bài học) cao đẹp như thế. 4- Vận dụng thực hành cho từng dạng đề 4.1- Nghị luận về một bài thơ a- Viết mở bài. * Mở bài trực tiếp * Ví dụ: Phân tích “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật có thể viết như sau: Học sinh cần nhớ - Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. - Đề tài: thơ ông thường viết về con đường Trường Sơn với người chiến sĩ lái xe và những cô gái thanh niên xung phong. - Phong cách thơ: thể hiện sự trẻ trung, hồn nhiên, ngang tàng đậm chất lính. - Bài thơ viết năm 1969 Từ những dữ liệu trên các em có thể viết mở bài: 9
  10. Phạm Tiến Duật cây bút thơ tiêu biểu của thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường viết về con đường Trường Sơn huyền thoại với hình ảnh đẹp về người chiến sĩ lái xe và những cô nữ thanh niên xung phong. “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” sáng tác năm 1969 là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài này. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận thấm thía hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ,đặc biệt là hình tượng đẹp của người chiến sĩ lái xe. * Mở bài theo lối gián tiếp: - Dẫn dắt từ một câu danh ngôn, câu thơ,câu ca dao có cùng đề tài. * Ví dụ: Phân tích bài thơ “ Nói với con” của Y Phương Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Câu ca dao trên đã ngợi ca và khẳng định công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái. Mỗi chúng ta trưởng thành khôn lớn là nhờ công ơn cha mẹ. Phải chăng đó cũng là lí do mà tình cảm gia đình nói chung và tình mẫu tử, phụ tử nói riêng trở thành đề tài phổ biến trong thơ ca. Góp thêm một tiếng nói ân tình của cha đối với con, “ Nói với con” của Y Phương một lần nữa giúp ta cảm nhận được ý nghĩa cao đẹp của tình phụ tử và thấm thía vẻ đẹp trong tâm hồn của người miền núi. b- Cách viết thân bài. b.1- Cách tìm luận điểm * Tác phẩm nào cũng tìm hiểu theo bố cục( bài thơ được chia thành mấy đoạn ) thì mỗi đoạn của văn bản ứng với một luận điểm * Ví dụ: Phân tích bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương - Hệ thống luận điểm: + Luận điểm 1: Cảm xúc khi ở ngoài vào lăng( khổ 1) + Luận điểm 2: Cảm xúc khi ở trước lăng( khổ 2) + Luận điểm 3: Cảm xúc khi ở trong lăng( khổ 3) + Luận điểm 4: Cảm xúc khi nghĩ đến giờ phút sắp phải chia tay( khổ 4) * Chú ý: Tác phẩm tìm hiểu theo bố cục nhưng trong từng đoạn thơ không phân tích theo thứ tự câu thơ trước sau mà học sinh phải biết tập hợp những câu thơ có cùng ý để phân tích. * Ví dụ: Phân tích“ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật Đây là bài thơ tìm hiểu theo hình ảnh nên tìm luận điểm dựa vào hình ảnh. Khi tìm hiểu hình ảnh thơ học sinh phải biết tập hợp những câu thơ có cùng ý để phân tích( không theo thứ tự thông thường) * Hệ thống luận điểm: - Luận điểm 1: + Hiện thực khốc liệt của cuộc chiến qua hình ảnh những chiếc xe không kính(học sinh phải tìm những câu thơ nói về chiếc xe không có kính) Không có kính, không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi Và: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước 10