Tham luận Tác động cuộc sống cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giáo dục phổ thông - Nguyễn Văn Thắng
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận Tác động cuộc sống cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giáo dục phổ thông - Nguyễn Văn Thắng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tham_luan_tac_dong_cuoc_song_cach_mang_cong_nghiep_4_0_doi_v.docx
Nội dung text: Tham luận Tác động cuộc sống cách mạng công nghiệp 4.0 đối với giáo dục phổ thông - Nguyễn Văn Thắng
- BÀI THAM LUẬN TÁC ĐỘNG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG GV: ThS. Nguyễn Văn Thắng Trường THPT Thuận Hòa Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự dịch chuyển này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua. Vậy thực chất cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 là gì? Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết hợp các công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo ra sự thay đổi vô cùng lớn, tác động đến nhiều lĩnh vực đối với đời sống, kinh tế xã hội và đây chính là thách thức của ngành giáo dục trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu mới của xã hội. I. CÁC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Cuộc CMCN lần thứ Nhất sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. 2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 1
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 ra đời từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa. 3. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT). Cuộc CMCN lần thứ 3 sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiện các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông - lâm - thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội. Làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất, cuộc Cách mạng KH&CN hiện đại đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội loài người, nhất là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vì đây chính là nơi phát sinh của cuộc cách mạng này 4. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 Khái niệm Công nghiệp 4.0 (Industrie 4.0) nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0 tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,... 2
- Cuộc CMCN thứ 4 hay Công nghiệp 4.0, là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây. Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh" hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua IoS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này. Các yếu tố cơ bản của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư: 1. Đức là quốc gia đầu tiên lên chương trình nghị sự của Chính phủ như “một chiến lược công nghệ cao". 2. Dựa trên hệ thống mạng - vật lý, kết hợp giữa cơ sở hạ tầng vật chấtvới các phần mềm, các bộ cảm biến, công nghệ nano, công nghệ truyền thông kỹ thuật số. 3. Mạng internet sẽ đóng một vai trò quan trọng. 4. Cho phép nền kinh tế toàn cầu có 14,2 tỷ USD thu nhập trong 15 năm tới. 5. Sẽ làm thay đổi hoàn toàn tới việc làm trong tương lai và tác động đến các ngành công nghiệp trên toàn thế giới. II. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ GIÁO DỤC VIỆT NAM 1. Đánh giá về thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có thể thấy tồn tại những điểm sau: Một là, mục tiêu GD (nhìn chung, các mục tiêu đó đều hướng tới việc đào tạo người học thành người lao động, phát triển toàn diện, "đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"). Đây là những mục tiêu mang tính “khuôn mẫu”, cơ bản và chung nhất cho nhiều nền GD, không chỉ của nước ta trước đây, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế - xã hội còn có những hạn chế. Hai là, nội dung GD. Nội dung GD ở nước ta vẫn được thể hiện chủ yếu ở chương trình, nội dung dạy học trong giáo trình và sách giáo khoa. Đa số nội dung trong giáo trình và sách giáo khoa của chúng ta vẫn còn mang nặng tính hàn lâm, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, lạc hậu, khép kín liên quan đến việc chậm đổi mới, bổ sung theo thời gian Ba là, chủ thể - khách thể GD. Hầu hết các lớp học chính quy của ta lâu nay dường như vẫn trung thành với hình thức lớp - bài. Thầy phải được đào tạo chính 3
- ngạch, trò phải có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định mới được theo học và phải tham gia đầy đủ các buổi lên lớp. Bốn là, phương pháp GD. Nền GD của chúng ta, từ phổ thông đến đại học, lâu nay vẫn sử dụng phương pháp “thuyết trình” “đọc-chép” là chủ yếu. Cách làm này có ảnh hưởng lớn tới tính chủ thể, sáng tạo, hạn chế tính phát triển của cả người dạy lẫn người học. Năm là, hình thức tổ chức GD, dạy học. Hình thức giảng dạy ở mỗi bậc học, cấp học cụ thể vẫn còn hạn chế về tính phong phú, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của người dạy và người học; các hình thức sêmina, nghiên cứu thực tế, chuyên đề, thí nghiệm, học theo nhóm - tổ đa số vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ; việc hướng dẫn người học tự nghiên cứu bài học trước khi lên lớp phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp dạy học tích cực. Sáu là, đánh giá kết quả GD. Việc đánh giá kết quả GD lâu này vẫn là một trong những công việc của ngành GD. Xét ở nhiều khía cạnh thì điều này phần nào còn hạn chế về tính khách quan trong quá trình nhận định, đánh giá. 2. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới giáo dục như thế nào? Do áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0, khi đó nhiều lĩnh vực công nghiệp được tự động hóa thay thế con người và các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ cao. Khi đó nếu người lao động không nâng cao năng lực, kỹ năng để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất thì bị loại khỏi thị trường lao động. Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước đang phát triển trong khu vực và thế giới đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn về sự thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0. Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra không chỉ với nền giáo dục (GD) Việt Nam mà của cả thế giới là làm thế nào để đào tạo ra nguồn nhân lực lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới. Muốn hòa nhập vào cuộc CMCN 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Chúng ta cần cải cách hệ thống GD, đào tạo để tạo ra công dân toàn cầu. Do đó, nền GD Việt Nam nói chung và các trường đại học, nơi cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn GD 4.0 theo hướng bảo đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho học sinh. 3. Ngành giáo dục trong cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ như thế nào? Ngành giáo dục trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, học sinh tiểu học sẽ không còn phải nghỉ học vì trời quá lạnh, quá nắng hay do bị đau chân không đến lớp 4
- được? Công nghệ thực tế ảo sẽ tái hiện toàn bộ không gian của lớp học một cách hoàn toàn sống động và rất thực tế và bé chẳng bỏ lỡ bất kì buổi học nào. Việc điểm danh tại lớp cũng có thể sử dụng công nghệ thực tế ảo, thầy giáo có thể dạy từ Anh với học trò đến từ khắp các châu lục và vẫn có thể tương tác với nhau như đang ngồi trong cùng một nơi, khoảng cách về địa lý, không gian và thời gian đã bị xóa nhòa. Công nghệ giúp giờ học sống động và hấp dẫn hơn bằng những đoạn phim tái hiện quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, từ trực quan sinh động sẽ dẫn đến tư duy trừu tượng và rất khó bị quên bài. Điều này vừa đòi hỏi tính tự học của học trò, vừa đòi hỏi các thầy cô giáo tương lai phải nỗ lực áp dụng công nghệ để các giờ học trở nên hấp dẫn. Việc học không còn đơn thuần triển khai trên giấy bút, giờ đây đã có thể thực hiện hoàn toàn trên các thiết bị điện tử. Một trong những đột phá về khoa học công nghệ đó là sự ra đời và phát triển của các thiết bị thông minh như smartphone, SmartTV, con người được tận hưởng những tiện ích của kỷ nguyên Internet vừa góp phần thỏa mãn nhu cầu giải trí vừa giúp tăng năng suất xử lý công việc. Giáo viên tương lai sẽ phải dạy trẻ tự học, tự tiến bộ, tự tư duy. Điều đáng nói, phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp, mà là giá trị mỗi người tạo ra cho xã hội. Sự cạnh tranh sẽ không còn từ quốc gia này với quốc gia nọ, mà các công dân trên toàn cầu thi đua mọi nơi mọi lúc. Chúng ta không phải chỉ cần đào tạo ra những cán bộ kế toán, cán bộ tài chính – ngân hàng, kỹ sư xây dựng mà phải hướng tới việc đào tạo toàn diện, cung cấp cho xã hội đội ngũ công dân toàn cầu. Người lao động phải có những kỹ năng cần thiết nhằm tạo ra càng nhiều giá trị, tiết kiệm càng nhiều vốn, nguồn lực cho thế giới thì phần thưởng nhận được sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, việc cộng tác và làm việc nhóm trở thành yêu cầu bắt buộc khi chúng ta tham gia càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này đòi hỏi một phong cách làm việc kỹ lưỡng, chuyên nghiệp, cẩn mật, có óc tổ chức, tư duy thương thảo mỗi lúc, khả năng truyền thông tuyệt vời trong nhiều ngoại ngữ, khả năng giải quyết mâu thuẫn, thậm chí xung đột từ xa Sẽ không có chỗ cho việc làm tạm bợ, không hiểu hoặc không tôn trọng luật pháp tại nhiều quốc gia; sẽ đòi hỏi một phông văn hóa cao để dễ tìm nguồn thông cảm giữa các chủng tộc, đạo giáo. Đồng thời, hàng trăm ngàn tấm bằng tiến sĩ, thạc sĩ sẽ nằm yên trong tủ, không còn là tấm hộ chiếu cho bất kỳ một chức vị nào. 4. Để bắt kịp kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0, Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì? 5
- Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay mới đang dừng lại ở mức độ "tìm hiểu" và "truyền tai nhau" về cách mạng công nghiệp 4.0 mà chưa có hành động hay chiến lược cụ thể nào cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục sắp tới. Xét về thực trạng giáo dục trong nước, dù đã có nhiều cuộc hội thảo thu hút các nhà nghiên cứu và giới làm ăn, đó là dịp tiếp cận với khái niệm “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (cách mạng công nghiệp 4.0) đang diễn ra với tốc độ nhanh và hiệu suất cao. Thế nhưng có vẻ như ngành giáo dục với chức năng đào tạo nhân lực đáp ứng chiến lược phát triển của đất nước lại chưa cho thấy một sự quan tâm đến đề tài này, chưa có một cuộc hội thảo nào được tổ chức với quy mô lớn để bàn về một vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm của mình. Điều đáng quan tâm là đầu ra của ngành giáo dục chính là đào tạo lao động cho xã hội – với nhu cầu ngày càng thay đổi chóng mặt. Nếu giáo dục Việt Nam không kịp thời và nhanh chóng có những cải cách căn bản, toàn bộ lao động chúng ta đào tạo ra sẽ trở nên lỗi thời, không có khả năng bắt kịp sự phát triển vũ bão của nền sản xuất – thương mại – dịch vụ của thế giới. Các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Oxford đã lượng hóa tác động của đổi mới công nghệ với tình trạng thất nghiệp bằng cách xếp hạng 702 ngành nghề khác nhau bị nguy cơ tự động hóa đe dọa từ ít nhất đến nhiều nhất, đây là một tham khảo quý giá cho các nhà làm chính sách và chuyên gia ngành giáo dục. Theo đó: - Những ngành có khả năng tự động hóa nhất gồm: điện thoại viên, người khai thuế, các viên chức trong lĩnh vực thể thao, thư ký và trợ lý hành chính, tiếp viên hàng không, nhà hàng và quán cà phê, môi giới bất động sản, nhà thầu lao động, người đưa thư. - Những ngành nghề ít khả năng tự động hóa gồm: nhân viên xã hội và chăm sóc bệnh nhân, thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, nhà tâm lý học, quản lý nhân sự, phân tích hệ thống máy tính, biên đạo múa, nhân chủng học, khảo cổ học, kiến trúc sư, quản lý bán hàng, giám đốc điều hành. 5. CMCN 4.0 ảnh hưởng đến giáo viên nhà trường Các hiệu ứng cơ bản của môi trường số hóa đối với quá trình dạy-học: - Cải tiến chất lượng làm việc của trò và thực hành thông qua nghe nhìn; - Cải tiến kỹ năng viết tay và ngôn ngữ qua xử lý từ ngữ; - Thúc đẩy tốc độ riêng để nâng cao năng lực học cá nhân khi sinh viên có thể theo kịp tiến độ và học tăng cường phù hợp với nhu cầu của họ. 6
- - Giúp học hợp tác với chỉ dẫn đôi chút cho đối tượng người học cá biệt; - Khuyến khích kèm cặp và kiểm tra theo cặp đôi đồng nghiệp; - Phát triển kỹ năng giao tiếp và nhận thức của đối tượng nghe; - Tác động đến việc học dựa vào nguồn lực truy cập Website; - Tăng cường thông tin liên tục, bổ sung chuẩn xác vào độ xác thực của nhiệm vụ học tập và thông tin nâng cao; - Gia tăng động cơ người học qua hoạt động thực tế, nghe nhìn trực quan và cải tiến lối trình bày diễn đạt; - Thúc đẩy học độc lập và những ưa thích cá nhân để xử lý, phác thảo, cách thiết kế bài giảng; - Trang bị cho người học cách tự kiểm soát; - Để cho người học tự làm ra sản phẩm đa phương tiện chất lượng cao; - Tăng cường học nâng cao, kinh nghiệm cho học viên có kết quả học tập; - Truyền cảm hứng để sinh viên cam kết học; - Phát triển tư duy của sinh viên ở bậc cao hơn: năng lực ứng dụng kiến thức và kỹ năng phân tích vấn đề thách thức, nắm bắt khái niệm rộng, đưa ra ý tưởng và giải pháp mới. Việc ngoại biên số hóa có thể sẵn sàng giúp sinh viên khai thác nội dung làm việc bên ngoài bài giảng dưới dạng số hóa và vai trò người thầy trên quan điểm kỹ thuật dạy học là có quan trọng cốt yếu. Giáo viên phải tìm ra các phương thức và cấu trúc hỗ trợ sinh viên phát triển các kỹ năng học tương tác, học cộng tác và học độc lập với nhau. Vai trò giáo viên mở rộng sang nuôi dưỡng lối tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học trong sinh viên để làm cho họ trở thành người biết cách tự học và tự đổi mới suốt đời. Thầy giáo được trang bị lệnh kỹ thuật số để nuôi dưỡng tư duy phê phán, óc sáng tạo và nhiệt tình khoa học cho sinh viên trở thành tự học và tự đổi mới suốt đời. Kĩ năng quan trọng nhất là kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và xóa mù thông tin. Cách dạy cũ không thể tạo ra những công dân thích hợp cho thế kỉ 7
- XXI –những công dân toàn cầu. Vậy vai trò của người thầy sẽ là gì để giúp cho chính họ và sinh viên điều chỉnh những thay đổi xã hội? Chúng ta đào tạo giáo viên là chuyên gia truyền đạt kiến thức hay chuyên gia giáo dục? Người ta đã bắt đầu quan tâm đến câu hỏi của người học: đến trường để làm gì nếu không có gì mới hơn sách điện tử, công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với không gian rộng hơn rất nhiều lớp học và vô số ‘ông thầy” ngoài người thầy (là duy nhất) trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp sẽ lớn hơn rất nhiều so với số lượng bạn bè trong lớp học Quan niệm “đến trường” là “đi học”, không đến trường là "không đi học" hình như đã tỏ ra lạc hậu trong kỉ nguyên mới. Đương nhiên, chức năng định hướng và dẫn dắt của nhà trường không thay đổi nhưng không thể thực hiện theo mô hình dạy học cũ. Cần xác định lại vai trò người thầy trong học tập kết nối mạng. Người thầy đóng vai trò chủ chốt trong đào tạo ra kho chứa hoàn chỉnh gồm học thuật hỗ trợ tâm lý con người và tâm lý xã hội, các dịch vụ hướng dẫn (tư vấn, cố vấn và hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn) để cung cấp cho sinh viên. Người thầy bắt buộc phải sử dụng nguồn lực thư viện điện tử để gia tăng quá trình dạy-học. Đó là chức năng sống còn của người thầy am hiểu công nghệ nhằm trao quyền và cho phép bản thân họ cũng như học trò sử dụng công cụ và công nghệ khác nhau để cải tiến dạy-học. Họ phải mài sắc kỹ năng của mình trên quan điểm, phương pháp dạy-học có tính cạnh tranh với công nghệ số. Việc quản lý nội dung và kiến thức là tài khéo tay biết xoay sở chủ yếu để giáo viên tồn tại trong môi trường số. Họ phải chọn lựa, phát triển và làm giàu tư liệu dạy-học với cấu trúc số hóa theo phương thức ở bất kỳ mọi nơi, mọi lúc. Giờ đây vai trò người thầy đã thay đổi nhờ nâng cao công nghệ, và việc đánh giá học tập của sinh viên đã vượt ra ngoài 4 bức tường lớp học. Tuy nhiên, điều rõ ràng là bất kỳ ai có khả năng nghe dư luận dân chúng đều thấy là chúng ta cần đánh giá lại vai trò của người giáo viên, kết cấu lại các hệ thống giáo dục của chúng ta, không phải cứ đi làm những bắt chước lu mờ trong lớp học cũ rích, một khi chúng ta nhìn thấy sự đi lên của phần mềm dạy học online đại chúng. 6. Giải pháp để nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam chính là phải thay đổi tư duy quá trình dạy và học trong các nhà trường 8
- Chúng ta cần định vị một cách cụ thể cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Theo đó, sự thay đổi về quan niệm, tư duy của quá trình dạy và học là một trong những yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền GD nói chung và đổi mới theo hướng GD 4.0 nói riêng. Đối với quá trình dạy, cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng GD nhân cách nói chung sang kết hợp GD nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực. Còn với việc học, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, tư duy độc lập. Không chỉ học chỉ trong sách vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Đặc biệt, với học sinh, sinh viên là người lao động trong tương lai cần thay đổi suy nghĩ học một lần cho cả đời bằng việc học cả đời để làm việc cả đời. Như vậy, nền GD cần chuyển đổi cách thức GD từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Trên cơ sở đó chương trình GD phổ thông mới cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình thức tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học. Tức là phương pháp GD cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức GD qua Internet. Qua đó, hình thức GD sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục và linh hoạt. Đối với lĩnh vực GD đại học, nơi đào tạo trực tiếp nguồn nhân lực cho cuộc CMCN 4.0 thì cần phải nhanh chóng đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo, từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp. 9